TƯỜNG THUẬT BUỔI ĐỐI THOẠI GIỮA BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG VỚI NGƯỜI DÂN VĂN GIANG Posted by basamnews on 21/08/2012
Sáng ngày 21/08/2012 đã diễn ra cuộc đối thoại giữa đại diện những người nông dân bị thu hồi đất liên quan đến dự án Ecopark – Văn Giang – Hưng Yên với Bộ Tài Nguyên và Môi trường (Bộ TN-MT) tại trụ sở của Bộ TN-MT số 83 Nguyễn Chí Thanh, Đống Đa, Hà Nội.
Từ 8h, hàng nghìn bà con Văn Giang – Hưng Yên đã có mặt tại trụ sở Bộ TN-MT. Tuy nhiên, chỉ có 100 người dân đại diện cho các hộ được vào hội trường tham gia buổi đối thoại.
8h15’, luật sư Trần Vũ Hải, luật sư Hà Huy Sơn và 03 trợ lý thuộc VPLS Trần Vũ Hải – được các hộ dân ủy quyền, đã có mặt để tham dự buổi đối thoại.
Buổi đối thoại còn có sự chứng kiến của hàng chục nhà báo.
Đúng 8h30’, buổi đối thoại được bắt đầu, một cán bộ của Bộ TNMT lên khai mạc và thông báo thành phần buổi đối thoại. Thành phần tham gia buổi đối thoại gồm có: Ông Chu Phạm Ngọc Hiển – Thứ trưởng Bộ TN-MT ( được Bộ trưởng Bộ TN-MT ủy quyền chủ trì buổi đối thoại); Ông Đặng Minh Ngọc – Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hưng Yên; Ông Nguyễn Duy Lượng – Phó Chủ tịch Hội nông dân Việt Nam; và nhiều cán bộ của Văn phòng Chính phủ, Thanh tra Chính phủ, các bộ phận của Bộ TN-MT, các sở ban ngành của tỉnh Hưng Yên và huyện Văn Giang.
Ông Hiển, Thứ trưởng phát biểu khai mạc, đề nghị bà con chọn cách thức đối thoại, cho biết đã nhận được thông báo đại diện các hộ dân Văn Giang ủy quyền cho luật sư Trần Vũ Hải.
Luật sư Hải phát biểu, yêu cầu Bộ TN-MT cung cấp bằng văn bản trả lời 12 nội dung trong Kiến nghị số 02 vì VPLS Trần Vũ Hải và các hộ dân chưa nhận được văn bản trả lời này.
Ông Hiển cho biết, trong buổi đối thoại ngày 21/08/2012 sẽ trả lời ngay những vấn đề có thể trả lời được, còn những vấn đề chưa thể trả lời, Bộ TN-MT sẽ có văn bản trả lời luật sư sau.
Luật sư Hải cho rằng, những vấn đề nêu trong Bản kiến nghị rất quan trọng, nếu Bộ không trả lời được thì sự việc sẽ còn kéo dài và phức tạp. Vậy nên buổi đối thoại ngày hôm nay sẽ đi vào từng nội dung từ 1 đến 12 như đã nêu trong bản Kiến nghị số 02, nếu những vấn đề nào Bộ trả lời ngay được thì yêu cầu trả lời, còn nếu chưa trả lời được thì có thể trả lời sau bằng văn bản. Ông Hiển cho biết ông hoàn toàn nhất trí với những nội dung mà luật sư nêu. Sau đây là 12 nội dung được đối thoại:
1. Bộ TN-MT cần cung cấp Toàn văn Tờ trình số 14/TTr-BTMMT ngày 12/3/2004 và Tờ trình số 99/TTr-BTNMT ngày 29/06/2004 gửi Thủ tướng Chính phủ (liên quan đến các Quyết định 303/QĐ – TTg ngày 30/03/2004 và Quyết định số 742/QĐ – TTg ngày 30/06/2004 của Thủ tướng Chính phủ)
Ông Hiển cho biết, về nguyên tắc, Bộ TN-MT không có trách nhiệm phải cung cấp 2 tờ trình trên, Bộ chỉ có trách nhiệm tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ để Thủ tướng Chính phủ ban hành văn bản. Tuy nhiên,sau khi ông Sơn – một đại diện hộ dân Văn Giang trích dẫn Luật phòng chống tham nhũng về nghĩa vụ cung cấp thông tin của cơ quan Nhà nước, ông Hiển đã đồng ý cung cấp bản sao 02 tờ trình này (sau buổi đối thoại này).
2. Tại sao Bộ TN–MT trình Thủ tướng Chính phủ Tờ trình số 99/TTr-BTNMT ngày 29/06/2004 ngay trước khi Luật Đất đai 1993 (được sửa đổi, bổ sung những năm 1998, 2001) hết hiệu lực? Việc trình này có theo đúng thủ tục hành chính hay được rút ngắn công đoạn để có lợi cho chủ đầu tư (đề nghị Quý Bộ kiểm tra văn thư việc đi đến của công văn liên quan từ UBND tỉnh Hưng Yên đến Quý Bộ và tờ trình của Quý Bộ đến Thủ tướng Chính phủ)?
Ông Hiển trả lời rằng Dự án đổi đất lấy hạ tầng xây dựng Khu đô thị Văn Giang là đúng quy định pháp luật hiện hành theo đúng thủ tục hành chính. Trình tự được rút ngắn, UBND tỉnh Hưng Yên trình Bộ TNMT vào ngày 28/6, Bộ trình Thủ tướng Chính phủ vào 29/6 về mặt thời gian không có vấn đề gì, và vẫn theo đúng trình tự thủ tục của pháp luật. Thực ra dự án này được Thủ tướng Chính phủ đồng ý về mặt chủ trương từ năm 2003. Từ 2003 đến 6/2004, các Bộ ngành có liên quan đã phối hợp với UBND tỉnh Hưng Yên để tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ phê duyệt dự án này theo đúng quy định của pháp luật. Như vậy đã có một thời gian rất dài để các bộ ngành liên quan tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ. Việc đẩy nhanh các thủ tục hành chính và rút ngắn thời gian là chủ trương của Chính phủ, đáng được biểu dương.
- Ý kiến củaLuật sư Trần Vũ Hải: Ngày 30/6 là ngày cuối cùng của luật Đất đai năm 1993 (được sửa đổi, bổ sung những năm 1998, 2001) còn hiệu lực. Theo luật Đất đai mới không có việc đổi đất lấy hạ tầng. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã nghi ngờ về khả năng tài chính của Chủ đầu tư, Bộ Giao thông vận tải chưa có ý kiến về dự án đường giao thông. Về vấn đề này chúng tôi sẽ có ý kiến có buổi làm việc riêng với VPCP và Bộ GTVT. Như vậy chưa thể nói đã tham khảo ý kiến đầy đủ các bộ ngành liên quan. Chúng tôi và ngươi dân rất hoan nghênh việc đẩy nhanh thủ tục hành chính, nhưng đề nghị cơ quan Nhà nước cũng cần giải quyết nhanh gọn các yêu cầu của bà con nông dân Văn Giang, đối xử công bằng như đối với Chủ đầu tư, không nên giải quyết chậm trễ như hiện nay, khiến người dân nghi kỵ về động cơ làm nhanh của những cơ quan này cho Chủ đầu tư.
3. Tại sao Bộ TN–MT không đệ trình và tham mưu Chính phủ thông qua những vấn đề nêu tại Quyết định 303/QĐ – TTg ngày 30/03/2004 và Quyết định số 742/QĐ – TTg ngày 30/06/2004? Vì theo quy định của Luật Đất đai 1993 (được sửa đổi, bổ sung những năm 1998, 2001), những nội dung này thuộc thẩm quyền của Chính phủ, không thuộc thẩm quyền quyết định của Thủ tướng Chính phủ?
Ông Hiển khẳng định đã tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ dựa trên cơ sở Điều 23 Nghị định số 04/2000/NĐ-CP của Chính phủ. Luật sư Hải cho rằng ông Hiển đã viện dẫn một văn bản cũ đã được sửa đổi, không phù hợp với quy định của pháp luật. Do vậy đề nghị ông Hiển sẽ trả lời nội dung này bằng văn bản,phía luật sư sẽ có kiến nghị và đề nghị vị đại diện Văn phòng Chính phủ trả lời về nội dung này.
Tuy nhiên, ông Hiển nói Bộ TN-MT mời các vị đại biểu đến tham dự buổi đối thoại hôm nay chứ không có trách nhiệm trả lời những câu hỏi của luật sư cũng như người dân.
Luật sư Hải đã viện dẫn Nghị định 66/2001/NĐ-CP là văn bản sửa đổi, bổ sung Nghị định số 04/2000/NĐ-CP nêu trên, đã xác định thẩm quyền trên thuộc Chính phủ (không thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ như Nghị định 04/2000/NĐ-CP) và đề nghị Ông Hiển đính chính, xin lỗi bà con về việc trích dẫn không đúng văn bản.
Ông Hiển cho rằng thẩm quyền giám sát các văn bản pháp luật thuộc thẩm quyền của Quốc hội nên nếu có thắc mắc, đề nghị luật sư và bà con gửi kiến nghị lên Quốc hội.
Về phía luật sư và người dân cho rằng, họ đã nhiều lần gửi kiến nghị lên Quốc hội nhưng không hề nhận được câu trả lời, nên Bộ TN-MT cần tham mưu cho Chính phủ trả lời cho bà con được rõ về vấn đề này, nếu Ông không trả lời được cần mời ông Đặng Hùng Võ – Nguyên Thứ trưởng Bộ TN-MT, một chuyên gia hàng đầu về đất đai trả lời vấn đề này.
Cuối cùng, ông Hiển đưa ra ý kiến là sẽ trả lời vấn đề này bằng văn bản.
4. Dựa vào quy hoạch nào và được cơ quan có thẩm quyền nào phê duyệt, Bộ TN–MT tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ ban hành 02 quyết định nêu trên? Nếu có quy hoạch đó, đề nghị Bộ TN–MT cung cấp. Nếu không có quy hoạch nào, đề nghị Quý Bộ giải thích.
Ông Hiển cho biết căn cứ vào Quyết định của UBND tỉnh Hưng Yên ngày 25/03/2004 việc phê duyệt quy hoạch xây dựng dự án KĐT Văn Giang, Bộ đã tham mưu cho TTCP ban hành 2 quyết định 303/QĐ-TTg và 742/QĐ-TTg của Thủ tướng.
Luật sư Hải cho biết đã nghiên cứu quy hoạch về xây dựng dự án KĐT Văn Giang, nhưng không thể coi quy hoạch này là quy hoạch sử dụng đất đai, Thủ tướng cũng không thể căn cứ vào quy hoạch của UBND tỉnh để quyết định.
Ông Hiển lại dẫn chiếu quy hoạch sử dụng đất đai được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 06/04/2002.
Luật sư Hải đề nghị ông Hiển cung cấp cho luật sư và người dân Văn Giang quy hoạch sử dụng đất đai năm 2002?
Ông Hiển nêu: Chúng tôi ko chỉ căn cứ vào quy hoạch đất đai mà còn căn cứ vào quy hoạch xây dựng đô thị. Việc điều chỉnh KH sử dụng đất để thực hiện dự án là phù hợp với quy hoạch sử dụng đất tại Quyết định số 438/2002 ngày 06/04/2002.
Ông Trương Công Kính (Nông dân Văn Giang): khẳng định không có quy hoạch trên và đề nghị Phó chủ tịch UBND tỉnh Hưng Yên trả lời rõ.
Ông Hiển một lần nữa khẳng định, các đại biểu được mời đến đây để tham dự chứ không có trách nhiệm trả lời và đồng ý sẽ trả lời vấn đề này bằng văn bản sau.
5. Đề nghị Quý Bộ cho biết 02 Quyết định này của Thủ tướng là quyết định hành chính hay văn bản quy phạm pháp luật? Nếu là quyết định hành chính có giá trị buộc thi hành đối với các hộ dân tại sao không được giao trực tiếp cho họ ngay sau khi ban hành? Nếu là văn bản quy phạm pháp luật tại sao lại không đăng tải trên công báo theo quy định của pháp luật? (Nếu Quý Bộ không trả lời được nội dung này, đề nghị tham khảo ý kiến của Văn phòng Chính phủ và/hoặc ý kiến của Bộ Tư pháp).
- Ý kiến trả lời của ông Hiển: Chúng tôi đối thoại với dân trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của Bộ. Vấn đề này không thuộc trách nhiệm của Bộ, nên đề nghị bà con hỏi Văn phòng Chính phủ hoặc Bộ Tư pháp.
- Luật sư Hải cho rằng: Bộ nói không có trách nhiệm là không đúng vì 2 văn bản này Bộ có trách nhiệm tham mưu, Văn phòng Chính phủ và Bộ tư pháp chúng tôi đã hỏi nhưng chưa được trả lời, cho đến nay Bộ cũng không dám khẳng định đây là văn bản pháp quy hay Quyết định hành chính (QĐHC)?
- Ông Hiển cho biết: chức năng của Bộ không phải là trả lời các văn bản quy phạm pháp luật là văn bản gì? Xét trên góc độ cá nhân, tôi trả lời với luật sư văn bản này là QĐHC.
- Ông Đàm Văn Đồng (xã Xuân Quan): tôi đã được tiếp xúc với ông 01 buổi vào buổi tiếp dân, hoàn toàn nhất trí với ý kiến của luật sư, phải trả lời công khai minh bạch cho dân biết.
- Luật sư Hải: cá nhân ông khẳng định rằng QĐHC, vậy tại sao không giao trực tiếp cho các hộ dân sau khi ban hành mà lại giao cho chủ đầu tư vào ngày 05/7/2004, còn các hộ dân nói họ không nhận được văn bản này? Nếu không giao họ không có trách nhiệm thi hành.
Ông Hiển: Đây là QĐ của Thủ tướng Chính phủ, đã ghi rõ tổ chức, cá nhân nào thực hiện QĐ của Thủ tướng, trách nhiệm này không thuộc trách nhiệm của Bộ TN-MT.
Ông Sơn (dân VG): Nói như vậy, người dân chúng tôi không có trách nhiệm thi hành vì trong QĐ không ghi tên chúng tôi.
Ông Hiển nói: UBND có trách nhiệm thi hành Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, nên UBND tỉnh phải có trách nhiệm triển khai với nhân dân thi hành QĐ này
Luật sư Hải: Theo luật Hành chính,các QĐHC giao cho đối tượng nào thì đối tượng ấy phải thi hành, nhưng QĐ trên không giao cho các hộ dân, nhưng lại giao cho UBND tỉnh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCN QSDĐ) cho chủ đầu tư. Chúng tôi đề nghị ông trả lời bằng văn bản về vấn đề này.
6. Tại sao Bộ TN–MT tham mưu cho quyết định 303/QĐ – TTg xác định quỹ đất để tạo vốn xây dựng công trình cơ sở hạ tầng (1.650 ha, trong đó có 500 ha đất sau này được coi là đất của dự án Ecopark) là đất chuyên dùng, trong khi thực tế theo chủ đầu tư dự án Ecopark 30% của 500 ha đất này được dùng làm đất ở (tức không phải đất chuyên dùng)?
Ông Hiển có trích dẫn Nghị định 04/2000 Ngày 11/2/2000 của CP về dự án xây dựng nhà ở để bán. Theo QĐ 303/QĐ-TTg đã xác định 500 ha là quỹ đất để tạo vốn xây dựng hạ tầng, còn việc xác định cụ thể các loại đất thì phải thực hiện theo quyết định phê duyệt do UBND tỉnh Hưng Yên là cơ quan phê duyệt.
- Bà Đỗ Thị Dơi (Phụng Công): Hỏi Bộ TN-MT có tư vấn cho Thủ tướng bán đất của dân trước 02 năm mà chúng tôi không biết?, năm 2002 tỉnh có quy hoạch cho nông dân chúng tôi dồn thửa đổi ruộng, vườn cây, ao cá. Vậy ông cho chúng tôi biết, dự án KĐT Văn Giang áp dụng luật đất đai mới hay cũ?
- Luật sư Hải khẳng định đất chuyên dùng không phải là đất ở, nếu giao cho Chủ đầu tư đất chuyên dùng, chủ đầu tư không được sử dụng làm đất ở, tức không được xây biệt thự, chung cư như hiện nay. Đề nghị ông Hiển trả lời bằng văn bản.
–
Phần 2 (bổ sung ngày 22/8):
7. Tại sao tờ trình của UBND tỉnh Hưng Yên liên quan đến quyết định 303/QĐ – TTg không được Hội đồng nhân dân tỉnh Hưng Yên thông qua theo quy định của Luật Đất đai nhưng vẫn được Bộ TN–MT bỏ qua, không báo cáo cho Thủ tướng Chính phủ biết về thiếu sót này của UBND tỉnh Hưng Yên?
Ông Hiển cho rằng tất cả các dự án đổi đất lấy hạ tầng đều phải trình Chính phủ. UBND tỉnh Hưng Yên đã trình Thủ tướng và được Thủ tướng đồng ý. Chủ trương này phải được tỉnh ủy, HĐND thống nhất, hoặc thường vụ tỉnh ủy, thường trực HĐND và UBND tỉnh thông qua
Luật sư Hải đã đề nghị ông Hiển nêu rõ văn bản nghị quyết của HĐND tỉnh vì theo Luật Đất đai phải được HĐND tỉnh thông qua việc bổ sung, sửa đổi kế hoạch sử dụng đất đai 5 năm trước khi trình Chính phủ.
Ông Hiển có viện dẫn Thông báo 435 ngày 05/12/2003 của thường vụ tỉnh Hưng Yên về triển khai chủ trương, có nêu đã được thường trực HĐND thông qua.
Luật sư Hải cho rằng, thường vụ tỉnh ủy không làm thay chức năng của HĐND, thường vụ Tỉnh ủy không có trách nhiệm phải báo cáo cho Bộ TN-MT và Bộ TN-MT không có quyền và nghĩa vụ xem xét văn bản của thường vụ Tỉnh ủy. Nếu không thấy HĐND tỉnh có nghị quyết phải yêu cầu địa phương thông qua HĐND tỉnh trước khi trình Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ. Yêu cầu Bộ TN-MT trả lời bằng văn bản vấn đề này.
8. Dựa trên dự án khả thi nào đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt (theo Điều 22 khoản 2 điểm a Luật Đất đai 1993 được sửa đổi, bổ sung những năm 1998, 2001), Bộ TN-MT đã tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định 742/QĐ-TTg?
Ông Hiển có viện dẫn 02 văn bản của UBND tỉnh Hưng Yên là QĐ 1430/QĐ-UB ngày 25/06/2004 phê duyệt dự án xây dựng hạ tầng KĐT Văn Giang và QĐ 1431/QĐ-UB ngày 25/06/2004 phê duyệt dự án đầu tư xây dựng tuyến đường giao thông liên tỉnh Hưng Yên – Hà Nội.
Luật sư Hải: Thủ tướng không thể căn cứ 02 dự án do Tỉnh Hưng Yên phê duyệt để ra quyết định giao đất. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có văn bản 3796 ngày 18/06/2004 đã khẳng định 02 dự án xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng nêu trên cần hoàn thiện thủ tục để trình Thủ tướng cho phép đầu tư. Tại thời điểm Bộ Kế hoạch và Đầu tư xem xét, Bộ đã chỉ ra cần xem xét năng lực tài chính của Chủ đầu tư (tại thời điểm đó vốn điều lệ của chủ đầu tư không quá 70 tỷ đồng), và nhiều điểm khác mà Chủ đầu tư chưa đáp ứng. Đến thời điểm 30/6/2004, chưa thấy có dự án khả thi nào của Chủ đầu tư được Thủ tướng Chính phủ ra quyết định cho phép đầu tư theo quy định của pháp luật. Dự án đường giao thông liên tỉnh (nối thị xã Hưng Yên – Hà Nội) là dự án xây đường quốc lộ, theo quy định của pháp luật về giao thông đường bộ, thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ GTVT, chưa thấy ý kiến của Bộ GTVT về dự án này. Quy hoạch giao thông đường bộ toàn quốc đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong Quyết định 162/2002/QĐ-TTg ngày 15/11/2012 và Quy hoạch tổng thể phát triển giao thông vận tải tỉnh Hưng Yên đến năm 2010 được UBND tỉnh Hưng Yên phê duyệt ngày 29/12/1999 (đã được Bộ GTVT cho ý kiến) đều không thấy nêu đường nối cầu Thanh Trì đi thị xã Hưng Yên, tức dự án đường đường bộ trên trái quy hoạch và chưa được Bộ GTVT thẩm định.
Ông Hiển cho rằng Thủ tướng đã cho phép tỉnh Hưng Yên phê duyệt các dự án trên (tức ủy quyền cho phê duyệt dự án) theo công văn ngày 31/10/2003 của Thủ tướng (do Phó thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký). UBND tỉnh đã lấy ý kiến của các Bộ ngành liên quan như Bộ tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Xây dựng, Bộ TN-MT. Bộ KH&ĐT chỉ là một ý kiến tham khảo, nhưng không phủ định được quyết định của Thủ tướng.
Luật sư Hải khẳng định, Thủ tướng cho phép Hưng Yên, nhưng phải làm theo quy định của pháp luật. Bộ KH&ĐT cơ quan có chuyên môn cao nhất về thẩm định các dự án đã xác định dự án trình lên chưa đủ khả thi. Dự án đường giao thông trái quy hoạch, cũng là trái pháp luật. UBND tỉnh không được tự ý quyết định những dự án quan trọng này, trái các quy định của pháp luật. Luật sư Hải đề nghị Bộ TN-MT trả lời bằng văn bản vấn đề này.
9. Tại sao trong quyết định giao đất 742/QĐ-TTg không ghi rõ tên, địa chỉ người hoặc đơn vị được giao đất mà lại ghi chung chung là chủ đầu tư và giao cho UBND tỉnh Hưng Yên lựa chọn và quyết định Chủ đầu tư tức người được giao đất, thực chất là ủy quyền cho cấp dưới lựa chọn người được giao đất? Phải chăng Bộ TN-MT đã tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định trái điều 25 Luật Đất đai 1993 (được sửa đổi, bổ sung những năm 1998, 2001) “Cơ quan có thẩm quyền giao đất… không được ủy quyền cho cấp dưới”?
Ông Hiển nhắc lại Thủ tướng đã ủy quyền cho UBND tỉnh Hưng Yên phê duyệt dự án tại công văn số 1495/CP-NN ngày 31/10/2003. UBND tỉnh đã phê duyệt dự án ghi rõ Chủ đầu tư là công ty CP đầu tư và phát triển đô thị Việt Hưng. Trong quyết định của Thủ tướng ghi chủ đầu tư tức Công ty Việt Hưng này.
Luật sư Hải cho biết quyết định của Thủ tướng không ghi tên và địa chỉ của công ty Việt Hưng. Tờ trình Thủ tướng của UBND tỉnh Hưng Yên ngày 28/06/2004 có tiêu đềvề việc thu hồi đất, giao cho (i) công ty Cổ phần và phát triển đô thị Việt Hưng để xây dựng (ii) hạ tầng kỹ thuật KDT thương mại – du lịch Văn Giang và (iii) tuyến đường giao thông liên tỉnh Hưng Yên – Hà Nội (đoạn từ huyện Văn Giang đến xã Dân Tiến – Khoái Châu). Tuy nhiên, quyết định của Thủ tướng trong nội dung không ghi chấp nhận nội dung (i) và (ii) của Tờ trình trên của tỉnh Hưng Yên, chỉ đề cập đến nội dung (iii), tức không phải chấp nhận toàn bộ đề nghị của tỉnh Hưng Yên trong Tờ trình. Và tại mục 1 Điều 2 giao cho tỉnh Hưng Yên lựa chọn và quyết định Chủ đầu tư, tức ủy quyền cho UBND tỉnh Hưng Yên giao đất cho Chủ đầu tư, trái Điều 25 Luật đất đai 1993 (được sửa đổi, bổ sung những năm 1998, 2001) đã viện dẫn trên. Bộ TN-MT phải chịu trách nhiệm về việc đã tham mưu trái luật cho Thủ tướng Chính phủ.
Luật sư Hải đề nghị Bộ TN-MT trả lời bằng văn bản vấn đề này.
10. Quyết định 742/QĐ- TTg đồng thời là quyết định thu hồi đất. Đề nghị Bộ TN-MT cho biết trường hợp thu hồi đất này được áp dụng theo điều khoản nào của Luật Đất đai 1993 (được sửa đổi, bổ sung những năm 1998, 2001)?
Ông Hiển : Căn cứ vào khoản 5 Điều 1 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật đất đai đã được sửa đổi năm 2001; Điều 21, Điều 28 Luật Đất đai 1993.
Ông Sơn (người dân Văn Giang) : về nguyên tắc, phải thu hồi đất rồi mới giao, vậy Thủ tướng căn cứ vào đâu để giao đất?
Luật sư Hải: Ông Hiển đã nhầm lẫn khi viện dẫn về thẩm quyền thu hồi đất. Chúng tôi yêu cầu ông làm rõ trường hợp thu hồi đất được áp dụng theo quy định nào của Luật đất đai 1993 ( áp dụng theo điều 26 hay điều 27 Luật đất đai và thuộc trường hợp nào trong các điều luật này?). Luật sư Hải loại trừ áp dụng điều 26 (vì các trường hợp này không thuộc trường hợp của dự án KĐT Văn Giang), loại trừ trường hợp dự án phục vụ quốc phòng, an ninh theo Điều 27, chỉ còn trường hợp vì lợi ích quốc gia hoặc lợi ích công cộng.
Ông Hiển đã viện dẫn Nghị định 22/1998 ngày 24/4/1998 (Điều 1 khoản 2) và đưa ra quan điểm của cá nhân ông về dự án này là cả lợi ích quốc gia lẫn lợi ích công cộng. Về thắc mắc của ông Sơn, ông Hiển cho biết việc quyết định thu hồì đất đồng thời với quyết định giao đất có thể được quy định trong một văn bản.
LS Hải khẳng định không thể có lợi ích quốc gia trong dự án này. Còn lợi ích công cộng, Điều 58 Luật đất đai 1993 có quy định về đất sử dụng vào mục đích công cộng và trích dẫn điều luật này, không có trường hợp như trường hợp dự án KĐT Văn Giang.
Ông Hiển cho biết: Dự án này là dự án đổi đất lấy hạ tầng, đây là lợi ích công cộng. Trên một góc độ nào đó, lợi ích công cộng cũng là lợi ích quốc gia. Lợi ích công cộng khác với mục đích công cộng.
LS Hải đề nghị Bộ TN-MT trả lời bằng văn bản vấn đề này.
11. Hiện những hộ dân vẫn giữ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ) liên quan đến nhà đất bị thu hồi. Vậy giấy tờ này có giá trị không? Tại sao không có quyết định thu hồi đất đến từng hộ dân? (Đề nghị trích rõ điều khoản văn bản pháp luật được áp dụng).
Ông Hiển dẫn chiếu theo điểm e, mục 4, chương 4 Thông tư số 1990/2001 ngày 30/11/2001, giấy CNQSDĐ đã cấp cho diện tích đất đã bị thu hồi thì không còn giá trị.
Luật sư Hải: Quy định trên không còn hiệu lực từ 01/07/2004 (thời điểm Luật đất đai mới có hiệu lực) và việc thu hồi đất trên thực tế diễn ra sau ngày này. Đề nghị Bộ TN-MT cho biết văn bản nào quy định để giải quyết những trường hợp chuyển tiếp giữa 02 luật Đất đai mới và cũ. Đề nghị trích rõ điều khoản nào quy định không cần giao quyết định thu hồi đất cho từng người dân.
Ông Hiển: Chỉ Luật Đất đai năm 2003 và Nghị định 181 mới quy định có quyết định thu hồi đất cho từng người sử dụng đất, còn Luật đất đai 1993 không nói rõ quy định này.
Ông Sơn: Cần phải hiểu Điều 21 và Điều 28 Luật Đất đai 1993 (được sửa đổi bổ sung những năm 1998, 2001) đã quy định QĐ thu hồi đất phải ghi rõ thu hồi đất cho từng người sử dụng đất. Ông Sơn cho biết trong một cuộc đối thoại với Thanh tra Nhà nước, Ông Lê Tiến Hào – Phó Tổng thanh tra có nói với bà con (chúng tôi có ghi âm): “Đây là kết luận của Thanh tra, ruộng vẫn làm, sổ đỏ vẫn có trong tay bà con, bà con không nhận tiền, ruộng vẫn thuộc bà con”.
Ông Hiển: Ông Hào nói thế nào chúng tôi không biết, Thông tư 01 ngày 13/4/2005 đã hướng dẫn việc này, ông đọc một quy định trong Thông tư này.
LS Hải: Thông tư này không nói đến vấn đề thu hồi đất mà không cần có QĐ thu hồi đất cho từng người sử dụng đất. Dự án đổi đất lấy hạ tầng được coi là 1 dạng đầu tư có nguồn vốn từ ngân sách, nên không thuộc điều chỉnh của đoạn ông Hiển vừa đọc (chỉ áp dụng đối với dự án không có nguồn vốn ngân sách).
Bà Đỗ Thị Dơi : Việc thu hồi đất ngay cả cán bộ xã đến năm 2006 cũng không biết, chúng tôi xin đề nghị ông sao văn bản trả lời cho chúng tôi.
Ông Hiển đồng ý sẽ trả lời bằng văn bản.
12. Đề nghị Bộ TN-MT cho biết việc cưỡng chế thu hồi đất đai và hỗ trợ thi công của tỉnh Hưng Yên tại Văn Giang có đúng quy định của Luật Đất đai không? (Nếu đúng, ghi rõ điều khoản văn bản pháp luật được áp dụng).
Ông Hiển nói việc cưỡng chế thu hồi đất và áp dụng biện pháp hỗ trợ thi công là việc của tỉnh Hưng Yên chứ không phải của Bộ TN-MT. Luật đất đai không hướng dẫn trình tự, thủ tục cưỡng chế mà phải theo luật khác. Ông Hiển còn cho biết, trước khi có vụ cưỡng chế này, Thủ tướng Chính phủ (cụ thể Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc) đã có thông báo kết luận, sau khi họp với các ban ngành trung ương và tỉnh Hưng Yên. Nếu bà con có khiếu nại gì về việc cưỡng chế thu hồi đất và hỗ trợ thi công thì thực hiện thủ tục khiếu nại tại Tòa án, tôi biết bà con cũng đang có khiếu nại tại Tòa. Hiện nay Thủ tướng đang giao cho Tổng thanh tra xem xét vấn đề này.
Luật sư Hà Huy Sơn cho biết các quyết định cưỡng chế không phải là quyết định cưỡng chế thu hồi đất theo Luật đất đai, mà là cưỡng chế thực hiện quyết định xử phạt hành chính ( tức cưỡng chế phạt tiền, nếu có).
Luật sư Hải: Ông Hiển đã cho biết, các ban ngành đã họp, tức Bộ TN-MT đã tham gia tham mưu cho Chính phủ và địa phương, sau đó đã kiểm tra lại việc thực hiện ở địa phương nên phải biết rõ việc này, phải có chính kiến đúng sai, không thể nước đôi. Bộ TN-MT quản lý các vấn đề đất đai trên toàn quốc, trong đó có việc thu hồi đất và cưỡng chế thu hồi đất, các nông dân mất đất đang chăm chú theo dõi quan điểm của Bộ TN-MT, vì vậy Bộ TN-MT cần tỏ thái độ dứt khoát.
Ông Đàm Văn Đồng (người dân Văn Giang) đã đưa một nội dung báo chí trong đó đăng ông Bộ trưởng Bộ TN-MT đã cử Thứ trưởng đi kiểm tra, nhưng không gặp người dân Văn Giang, song vẫn nói việc cưỡng chế, thu hồi đất là đúng. Ông Đồng đã lên tận bàn chủ tọa đưa tài liệu này cho ông Hiển.
Buổi đối thoại kéo dài đến 12h30’. Mặc dù vẫn còn rất nhiều vấn đề cần làm rõ, bà con vẫn còn muốn đối thoại tiếp, nhưng luật sư Hải đã khuyên bà con tôn trọng thỏa thuận, tôn trọng Bộ TN-MT, những vấn đề thắc mắc sẽ kiến nghị bằng văn bản tới Bộ TN-MT, ông Hiển cũng đồng ý sẽ trả lời bằng văn bản tất cả những thắc mắc của luật sư cũng như của bà con Văn Giang. Ông Hiển khẳng định sẽ cố gắng đáp ứng được lợi ích chính đáng của bà con nông dân Văn Giang, cho rằng buổi đối thoại này sẽ giúp ích cho Bộ TN-MT trong việc tham mưu cho Nhà nước những vấn đề liên quan đến đất đai, đặc biệt sắp tới Luật đất đai sẽ được sửa đổi toàn diện.
Sau đây là nhận xét chung của luật sư Trần Vũ Hải:
Từ 8h, hàng nghìn bà con Văn Giang – Hưng Yên đã có mặt tại trụ sở Bộ TN-MT. Tuy nhiên, chỉ có 100 người dân đại diện cho các hộ được vào hội trường tham gia buổi đối thoại.
8h15’, luật sư Trần Vũ Hải, luật sư Hà Huy Sơn và 03 trợ lý thuộc VPLS Trần Vũ Hải – được các hộ dân ủy quyền, đã có mặt để tham dự buổi đối thoại.
Buổi đối thoại còn có sự chứng kiến của hàng chục nhà báo.
Đúng 8h30’, buổi đối thoại được bắt đầu, một cán bộ của Bộ TNMT lên khai mạc và thông báo thành phần buổi đối thoại. Thành phần tham gia buổi đối thoại gồm có: Ông Chu Phạm Ngọc Hiển – Thứ trưởng Bộ TN-MT ( được Bộ trưởng Bộ TN-MT ủy quyền chủ trì buổi đối thoại); Ông Đặng Minh Ngọc – Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hưng Yên; Ông Nguyễn Duy Lượng – Phó Chủ tịch Hội nông dân Việt Nam; và nhiều cán bộ của Văn phòng Chính phủ, Thanh tra Chính phủ, các bộ phận của Bộ TN-MT, các sở ban ngành của tỉnh Hưng Yên và huyện Văn Giang.
Ông Hiển, Thứ trưởng phát biểu khai mạc, đề nghị bà con chọn cách thức đối thoại, cho biết đã nhận được thông báo đại diện các hộ dân Văn Giang ủy quyền cho luật sư Trần Vũ Hải.
Luật sư Hải phát biểu, yêu cầu Bộ TN-MT cung cấp bằng văn bản trả lời 12 nội dung trong Kiến nghị số 02 vì VPLS Trần Vũ Hải và các hộ dân chưa nhận được văn bản trả lời này.
Ông Hiển cho biết, trong buổi đối thoại ngày 21/08/2012 sẽ trả lời ngay những vấn đề có thể trả lời được, còn những vấn đề chưa thể trả lời, Bộ TN-MT sẽ có văn bản trả lời luật sư sau.
Luật sư Hải cho rằng, những vấn đề nêu trong Bản kiến nghị rất quan trọng, nếu Bộ không trả lời được thì sự việc sẽ còn kéo dài và phức tạp. Vậy nên buổi đối thoại ngày hôm nay sẽ đi vào từng nội dung từ 1 đến 12 như đã nêu trong bản Kiến nghị số 02, nếu những vấn đề nào Bộ trả lời ngay được thì yêu cầu trả lời, còn nếu chưa trả lời được thì có thể trả lời sau bằng văn bản. Ông Hiển cho biết ông hoàn toàn nhất trí với những nội dung mà luật sư nêu. Sau đây là 12 nội dung được đối thoại:
1. Bộ TN-MT cần cung cấp Toàn văn Tờ trình số 14/TTr-BTMMT ngày 12/3/2004 và Tờ trình số 99/TTr-BTNMT ngày 29/06/2004 gửi Thủ tướng Chính phủ (liên quan đến các Quyết định 303/QĐ – TTg ngày 30/03/2004 và Quyết định số 742/QĐ – TTg ngày 30/06/2004 của Thủ tướng Chính phủ)
Ông Hiển cho biết, về nguyên tắc, Bộ TN-MT không có trách nhiệm phải cung cấp 2 tờ trình trên, Bộ chỉ có trách nhiệm tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ để Thủ tướng Chính phủ ban hành văn bản. Tuy nhiên,sau khi ông Sơn – một đại diện hộ dân Văn Giang trích dẫn Luật phòng chống tham nhũng về nghĩa vụ cung cấp thông tin của cơ quan Nhà nước, ông Hiển đã đồng ý cung cấp bản sao 02 tờ trình này (sau buổi đối thoại này).
2. Tại sao Bộ TN–MT trình Thủ tướng Chính phủ Tờ trình số 99/TTr-BTNMT ngày 29/06/2004 ngay trước khi Luật Đất đai 1993 (được sửa đổi, bổ sung những năm 1998, 2001) hết hiệu lực? Việc trình này có theo đúng thủ tục hành chính hay được rút ngắn công đoạn để có lợi cho chủ đầu tư (đề nghị Quý Bộ kiểm tra văn thư việc đi đến của công văn liên quan từ UBND tỉnh Hưng Yên đến Quý Bộ và tờ trình của Quý Bộ đến Thủ tướng Chính phủ)?
Ông Hiển trả lời rằng Dự án đổi đất lấy hạ tầng xây dựng Khu đô thị Văn Giang là đúng quy định pháp luật hiện hành theo đúng thủ tục hành chính. Trình tự được rút ngắn, UBND tỉnh Hưng Yên trình Bộ TNMT vào ngày 28/6, Bộ trình Thủ tướng Chính phủ vào 29/6 về mặt thời gian không có vấn đề gì, và vẫn theo đúng trình tự thủ tục của pháp luật. Thực ra dự án này được Thủ tướng Chính phủ đồng ý về mặt chủ trương từ năm 2003. Từ 2003 đến 6/2004, các Bộ ngành có liên quan đã phối hợp với UBND tỉnh Hưng Yên để tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ phê duyệt dự án này theo đúng quy định của pháp luật. Như vậy đã có một thời gian rất dài để các bộ ngành liên quan tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ. Việc đẩy nhanh các thủ tục hành chính và rút ngắn thời gian là chủ trương của Chính phủ, đáng được biểu dương.
- Ý kiến củaLuật sư Trần Vũ Hải: Ngày 30/6 là ngày cuối cùng của luật Đất đai năm 1993 (được sửa đổi, bổ sung những năm 1998, 2001) còn hiệu lực. Theo luật Đất đai mới không có việc đổi đất lấy hạ tầng. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã nghi ngờ về khả năng tài chính của Chủ đầu tư, Bộ Giao thông vận tải chưa có ý kiến về dự án đường giao thông. Về vấn đề này chúng tôi sẽ có ý kiến có buổi làm việc riêng với VPCP và Bộ GTVT. Như vậy chưa thể nói đã tham khảo ý kiến đầy đủ các bộ ngành liên quan. Chúng tôi và ngươi dân rất hoan nghênh việc đẩy nhanh thủ tục hành chính, nhưng đề nghị cơ quan Nhà nước cũng cần giải quyết nhanh gọn các yêu cầu của bà con nông dân Văn Giang, đối xử công bằng như đối với Chủ đầu tư, không nên giải quyết chậm trễ như hiện nay, khiến người dân nghi kỵ về động cơ làm nhanh của những cơ quan này cho Chủ đầu tư.
3. Tại sao Bộ TN–MT không đệ trình và tham mưu Chính phủ thông qua những vấn đề nêu tại Quyết định 303/QĐ – TTg ngày 30/03/2004 và Quyết định số 742/QĐ – TTg ngày 30/06/2004? Vì theo quy định của Luật Đất đai 1993 (được sửa đổi, bổ sung những năm 1998, 2001), những nội dung này thuộc thẩm quyền của Chính phủ, không thuộc thẩm quyền quyết định của Thủ tướng Chính phủ?
Ông Hiển khẳng định đã tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ dựa trên cơ sở Điều 23 Nghị định số 04/2000/NĐ-CP của Chính phủ. Luật sư Hải cho rằng ông Hiển đã viện dẫn một văn bản cũ đã được sửa đổi, không phù hợp với quy định của pháp luật. Do vậy đề nghị ông Hiển sẽ trả lời nội dung này bằng văn bản,phía luật sư sẽ có kiến nghị và đề nghị vị đại diện Văn phòng Chính phủ trả lời về nội dung này.
Tuy nhiên, ông Hiển nói Bộ TN-MT mời các vị đại biểu đến tham dự buổi đối thoại hôm nay chứ không có trách nhiệm trả lời những câu hỏi của luật sư cũng như người dân.
Luật sư Hải đã viện dẫn Nghị định 66/2001/NĐ-CP là văn bản sửa đổi, bổ sung Nghị định số 04/2000/NĐ-CP nêu trên, đã xác định thẩm quyền trên thuộc Chính phủ (không thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ như Nghị định 04/2000/NĐ-CP) và đề nghị Ông Hiển đính chính, xin lỗi bà con về việc trích dẫn không đúng văn bản.
Ông Hiển cho rằng thẩm quyền giám sát các văn bản pháp luật thuộc thẩm quyền của Quốc hội nên nếu có thắc mắc, đề nghị luật sư và bà con gửi kiến nghị lên Quốc hội.
Về phía luật sư và người dân cho rằng, họ đã nhiều lần gửi kiến nghị lên Quốc hội nhưng không hề nhận được câu trả lời, nên Bộ TN-MT cần tham mưu cho Chính phủ trả lời cho bà con được rõ về vấn đề này, nếu Ông không trả lời được cần mời ông Đặng Hùng Võ – Nguyên Thứ trưởng Bộ TN-MT, một chuyên gia hàng đầu về đất đai trả lời vấn đề này.
Cuối cùng, ông Hiển đưa ra ý kiến là sẽ trả lời vấn đề này bằng văn bản.
4. Dựa vào quy hoạch nào và được cơ quan có thẩm quyền nào phê duyệt, Bộ TN–MT tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ ban hành 02 quyết định nêu trên? Nếu có quy hoạch đó, đề nghị Bộ TN–MT cung cấp. Nếu không có quy hoạch nào, đề nghị Quý Bộ giải thích.
Ông Hiển cho biết căn cứ vào Quyết định của UBND tỉnh Hưng Yên ngày 25/03/2004 việc phê duyệt quy hoạch xây dựng dự án KĐT Văn Giang, Bộ đã tham mưu cho TTCP ban hành 2 quyết định 303/QĐ-TTg và 742/QĐ-TTg của Thủ tướng.
Luật sư Hải cho biết đã nghiên cứu quy hoạch về xây dựng dự án KĐT Văn Giang, nhưng không thể coi quy hoạch này là quy hoạch sử dụng đất đai, Thủ tướng cũng không thể căn cứ vào quy hoạch của UBND tỉnh để quyết định.
Ông Hiển lại dẫn chiếu quy hoạch sử dụng đất đai được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 06/04/2002.
Luật sư Hải đề nghị ông Hiển cung cấp cho luật sư và người dân Văn Giang quy hoạch sử dụng đất đai năm 2002?
Ông Hiển nêu: Chúng tôi ko chỉ căn cứ vào quy hoạch đất đai mà còn căn cứ vào quy hoạch xây dựng đô thị. Việc điều chỉnh KH sử dụng đất để thực hiện dự án là phù hợp với quy hoạch sử dụng đất tại Quyết định số 438/2002 ngày 06/04/2002.
Ông Trương Công Kính (Nông dân Văn Giang): khẳng định không có quy hoạch trên và đề nghị Phó chủ tịch UBND tỉnh Hưng Yên trả lời rõ.
Ông Hiển một lần nữa khẳng định, các đại biểu được mời đến đây để tham dự chứ không có trách nhiệm trả lời và đồng ý sẽ trả lời vấn đề này bằng văn bản sau.
5. Đề nghị Quý Bộ cho biết 02 Quyết định này của Thủ tướng là quyết định hành chính hay văn bản quy phạm pháp luật? Nếu là quyết định hành chính có giá trị buộc thi hành đối với các hộ dân tại sao không được giao trực tiếp cho họ ngay sau khi ban hành? Nếu là văn bản quy phạm pháp luật tại sao lại không đăng tải trên công báo theo quy định của pháp luật? (Nếu Quý Bộ không trả lời được nội dung này, đề nghị tham khảo ý kiến của Văn phòng Chính phủ và/hoặc ý kiến của Bộ Tư pháp).
- Ý kiến trả lời của ông Hiển: Chúng tôi đối thoại với dân trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của Bộ. Vấn đề này không thuộc trách nhiệm của Bộ, nên đề nghị bà con hỏi Văn phòng Chính phủ hoặc Bộ Tư pháp.
- Luật sư Hải cho rằng: Bộ nói không có trách nhiệm là không đúng vì 2 văn bản này Bộ có trách nhiệm tham mưu, Văn phòng Chính phủ và Bộ tư pháp chúng tôi đã hỏi nhưng chưa được trả lời, cho đến nay Bộ cũng không dám khẳng định đây là văn bản pháp quy hay Quyết định hành chính (QĐHC)?
- Ông Hiển cho biết: chức năng của Bộ không phải là trả lời các văn bản quy phạm pháp luật là văn bản gì? Xét trên góc độ cá nhân, tôi trả lời với luật sư văn bản này là QĐHC.
- Ông Đàm Văn Đồng (xã Xuân Quan): tôi đã được tiếp xúc với ông 01 buổi vào buổi tiếp dân, hoàn toàn nhất trí với ý kiến của luật sư, phải trả lời công khai minh bạch cho dân biết.
- Luật sư Hải: cá nhân ông khẳng định rằng QĐHC, vậy tại sao không giao trực tiếp cho các hộ dân sau khi ban hành mà lại giao cho chủ đầu tư vào ngày 05/7/2004, còn các hộ dân nói họ không nhận được văn bản này? Nếu không giao họ không có trách nhiệm thi hành.
Ông Hiển: Đây là QĐ của Thủ tướng Chính phủ, đã ghi rõ tổ chức, cá nhân nào thực hiện QĐ của Thủ tướng, trách nhiệm này không thuộc trách nhiệm của Bộ TN-MT.
Ông Sơn (dân VG): Nói như vậy, người dân chúng tôi không có trách nhiệm thi hành vì trong QĐ không ghi tên chúng tôi.
Ông Hiển nói: UBND có trách nhiệm thi hành Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, nên UBND tỉnh phải có trách nhiệm triển khai với nhân dân thi hành QĐ này
Luật sư Hải: Theo luật Hành chính,các QĐHC giao cho đối tượng nào thì đối tượng ấy phải thi hành, nhưng QĐ trên không giao cho các hộ dân, nhưng lại giao cho UBND tỉnh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCN QSDĐ) cho chủ đầu tư. Chúng tôi đề nghị ông trả lời bằng văn bản về vấn đề này.
6. Tại sao Bộ TN–MT tham mưu cho quyết định 303/QĐ – TTg xác định quỹ đất để tạo vốn xây dựng công trình cơ sở hạ tầng (1.650 ha, trong đó có 500 ha đất sau này được coi là đất của dự án Ecopark) là đất chuyên dùng, trong khi thực tế theo chủ đầu tư dự án Ecopark 30% của 500 ha đất này được dùng làm đất ở (tức không phải đất chuyên dùng)?
Ông Hiển có trích dẫn Nghị định 04/2000 Ngày 11/2/2000 của CP về dự án xây dựng nhà ở để bán. Theo QĐ 303/QĐ-TTg đã xác định 500 ha là quỹ đất để tạo vốn xây dựng hạ tầng, còn việc xác định cụ thể các loại đất thì phải thực hiện theo quyết định phê duyệt do UBND tỉnh Hưng Yên là cơ quan phê duyệt.
- Bà Đỗ Thị Dơi (Phụng Công): Hỏi Bộ TN-MT có tư vấn cho Thủ tướng bán đất của dân trước 02 năm mà chúng tôi không biết?, năm 2002 tỉnh có quy hoạch cho nông dân chúng tôi dồn thửa đổi ruộng, vườn cây, ao cá. Vậy ông cho chúng tôi biết, dự án KĐT Văn Giang áp dụng luật đất đai mới hay cũ?
- Luật sư Hải khẳng định đất chuyên dùng không phải là đất ở, nếu giao cho Chủ đầu tư đất chuyên dùng, chủ đầu tư không được sử dụng làm đất ở, tức không được xây biệt thự, chung cư như hiện nay. Đề nghị ông Hiển trả lời bằng văn bản.
–
Phần 2 (bổ sung ngày 22/8):
7. Tại sao tờ trình của UBND tỉnh Hưng Yên liên quan đến quyết định 303/QĐ – TTg không được Hội đồng nhân dân tỉnh Hưng Yên thông qua theo quy định của Luật Đất đai nhưng vẫn được Bộ TN–MT bỏ qua, không báo cáo cho Thủ tướng Chính phủ biết về thiếu sót này của UBND tỉnh Hưng Yên?
Ông Hiển cho rằng tất cả các dự án đổi đất lấy hạ tầng đều phải trình Chính phủ. UBND tỉnh Hưng Yên đã trình Thủ tướng và được Thủ tướng đồng ý. Chủ trương này phải được tỉnh ủy, HĐND thống nhất, hoặc thường vụ tỉnh ủy, thường trực HĐND và UBND tỉnh thông qua
Luật sư Hải đã đề nghị ông Hiển nêu rõ văn bản nghị quyết của HĐND tỉnh vì theo Luật Đất đai phải được HĐND tỉnh thông qua việc bổ sung, sửa đổi kế hoạch sử dụng đất đai 5 năm trước khi trình Chính phủ.
Ông Hiển có viện dẫn Thông báo 435 ngày 05/12/2003 của thường vụ tỉnh Hưng Yên về triển khai chủ trương, có nêu đã được thường trực HĐND thông qua.
Luật sư Hải cho rằng, thường vụ tỉnh ủy không làm thay chức năng của HĐND, thường vụ Tỉnh ủy không có trách nhiệm phải báo cáo cho Bộ TN-MT và Bộ TN-MT không có quyền và nghĩa vụ xem xét văn bản của thường vụ Tỉnh ủy. Nếu không thấy HĐND tỉnh có nghị quyết phải yêu cầu địa phương thông qua HĐND tỉnh trước khi trình Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ. Yêu cầu Bộ TN-MT trả lời bằng văn bản vấn đề này.
8. Dựa trên dự án khả thi nào đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt (theo Điều 22 khoản 2 điểm a Luật Đất đai 1993 được sửa đổi, bổ sung những năm 1998, 2001), Bộ TN-MT đã tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định 742/QĐ-TTg?
Ông Hiển có viện dẫn 02 văn bản của UBND tỉnh Hưng Yên là QĐ 1430/QĐ-UB ngày 25/06/2004 phê duyệt dự án xây dựng hạ tầng KĐT Văn Giang và QĐ 1431/QĐ-UB ngày 25/06/2004 phê duyệt dự án đầu tư xây dựng tuyến đường giao thông liên tỉnh Hưng Yên – Hà Nội.
Luật sư Hải: Thủ tướng không thể căn cứ 02 dự án do Tỉnh Hưng Yên phê duyệt để ra quyết định giao đất. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có văn bản 3796 ngày 18/06/2004 đã khẳng định 02 dự án xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng nêu trên cần hoàn thiện thủ tục để trình Thủ tướng cho phép đầu tư. Tại thời điểm Bộ Kế hoạch và Đầu tư xem xét, Bộ đã chỉ ra cần xem xét năng lực tài chính của Chủ đầu tư (tại thời điểm đó vốn điều lệ của chủ đầu tư không quá 70 tỷ đồng), và nhiều điểm khác mà Chủ đầu tư chưa đáp ứng. Đến thời điểm 30/6/2004, chưa thấy có dự án khả thi nào của Chủ đầu tư được Thủ tướng Chính phủ ra quyết định cho phép đầu tư theo quy định của pháp luật. Dự án đường giao thông liên tỉnh (nối thị xã Hưng Yên – Hà Nội) là dự án xây đường quốc lộ, theo quy định của pháp luật về giao thông đường bộ, thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ GTVT, chưa thấy ý kiến của Bộ GTVT về dự án này. Quy hoạch giao thông đường bộ toàn quốc đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong Quyết định 162/2002/QĐ-TTg ngày 15/11/2012 và Quy hoạch tổng thể phát triển giao thông vận tải tỉnh Hưng Yên đến năm 2010 được UBND tỉnh Hưng Yên phê duyệt ngày 29/12/1999 (đã được Bộ GTVT cho ý kiến) đều không thấy nêu đường nối cầu Thanh Trì đi thị xã Hưng Yên, tức dự án đường đường bộ trên trái quy hoạch và chưa được Bộ GTVT thẩm định.
Ông Hiển cho rằng Thủ tướng đã cho phép tỉnh Hưng Yên phê duyệt các dự án trên (tức ủy quyền cho phê duyệt dự án) theo công văn ngày 31/10/2003 của Thủ tướng (do Phó thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký). UBND tỉnh đã lấy ý kiến của các Bộ ngành liên quan như Bộ tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Xây dựng, Bộ TN-MT. Bộ KH&ĐT chỉ là một ý kiến tham khảo, nhưng không phủ định được quyết định của Thủ tướng.
Luật sư Hải khẳng định, Thủ tướng cho phép Hưng Yên, nhưng phải làm theo quy định của pháp luật. Bộ KH&ĐT cơ quan có chuyên môn cao nhất về thẩm định các dự án đã xác định dự án trình lên chưa đủ khả thi. Dự án đường giao thông trái quy hoạch, cũng là trái pháp luật. UBND tỉnh không được tự ý quyết định những dự án quan trọng này, trái các quy định của pháp luật. Luật sư Hải đề nghị Bộ TN-MT trả lời bằng văn bản vấn đề này.
9. Tại sao trong quyết định giao đất 742/QĐ-TTg không ghi rõ tên, địa chỉ người hoặc đơn vị được giao đất mà lại ghi chung chung là chủ đầu tư và giao cho UBND tỉnh Hưng Yên lựa chọn và quyết định Chủ đầu tư tức người được giao đất, thực chất là ủy quyền cho cấp dưới lựa chọn người được giao đất? Phải chăng Bộ TN-MT đã tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định trái điều 25 Luật Đất đai 1993 (được sửa đổi, bổ sung những năm 1998, 2001) “Cơ quan có thẩm quyền giao đất… không được ủy quyền cho cấp dưới”?
Ông Hiển nhắc lại Thủ tướng đã ủy quyền cho UBND tỉnh Hưng Yên phê duyệt dự án tại công văn số 1495/CP-NN ngày 31/10/2003. UBND tỉnh đã phê duyệt dự án ghi rõ Chủ đầu tư là công ty CP đầu tư và phát triển đô thị Việt Hưng. Trong quyết định của Thủ tướng ghi chủ đầu tư tức Công ty Việt Hưng này.
Luật sư Hải cho biết quyết định của Thủ tướng không ghi tên và địa chỉ của công ty Việt Hưng. Tờ trình Thủ tướng của UBND tỉnh Hưng Yên ngày 28/06/2004 có tiêu đềvề việc thu hồi đất, giao cho (i) công ty Cổ phần và phát triển đô thị Việt Hưng để xây dựng (ii) hạ tầng kỹ thuật KDT thương mại – du lịch Văn Giang và (iii) tuyến đường giao thông liên tỉnh Hưng Yên – Hà Nội (đoạn từ huyện Văn Giang đến xã Dân Tiến – Khoái Châu). Tuy nhiên, quyết định của Thủ tướng trong nội dung không ghi chấp nhận nội dung (i) và (ii) của Tờ trình trên của tỉnh Hưng Yên, chỉ đề cập đến nội dung (iii), tức không phải chấp nhận toàn bộ đề nghị của tỉnh Hưng Yên trong Tờ trình. Và tại mục 1 Điều 2 giao cho tỉnh Hưng Yên lựa chọn và quyết định Chủ đầu tư, tức ủy quyền cho UBND tỉnh Hưng Yên giao đất cho Chủ đầu tư, trái Điều 25 Luật đất đai 1993 (được sửa đổi, bổ sung những năm 1998, 2001) đã viện dẫn trên. Bộ TN-MT phải chịu trách nhiệm về việc đã tham mưu trái luật cho Thủ tướng Chính phủ.
Luật sư Hải đề nghị Bộ TN-MT trả lời bằng văn bản vấn đề này.
10. Quyết định 742/QĐ- TTg đồng thời là quyết định thu hồi đất. Đề nghị Bộ TN-MT cho biết trường hợp thu hồi đất này được áp dụng theo điều khoản nào của Luật Đất đai 1993 (được sửa đổi, bổ sung những năm 1998, 2001)?
Ông Hiển : Căn cứ vào khoản 5 Điều 1 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật đất đai đã được sửa đổi năm 2001; Điều 21, Điều 28 Luật Đất đai 1993.
Ông Sơn (người dân Văn Giang) : về nguyên tắc, phải thu hồi đất rồi mới giao, vậy Thủ tướng căn cứ vào đâu để giao đất?
Luật sư Hải: Ông Hiển đã nhầm lẫn khi viện dẫn về thẩm quyền thu hồi đất. Chúng tôi yêu cầu ông làm rõ trường hợp thu hồi đất được áp dụng theo quy định nào của Luật đất đai 1993 ( áp dụng theo điều 26 hay điều 27 Luật đất đai và thuộc trường hợp nào trong các điều luật này?). Luật sư Hải loại trừ áp dụng điều 26 (vì các trường hợp này không thuộc trường hợp của dự án KĐT Văn Giang), loại trừ trường hợp dự án phục vụ quốc phòng, an ninh theo Điều 27, chỉ còn trường hợp vì lợi ích quốc gia hoặc lợi ích công cộng.
Ông Hiển đã viện dẫn Nghị định 22/1998 ngày 24/4/1998 (Điều 1 khoản 2) và đưa ra quan điểm của cá nhân ông về dự án này là cả lợi ích quốc gia lẫn lợi ích công cộng. Về thắc mắc của ông Sơn, ông Hiển cho biết việc quyết định thu hồì đất đồng thời với quyết định giao đất có thể được quy định trong một văn bản.
LS Hải khẳng định không thể có lợi ích quốc gia trong dự án này. Còn lợi ích công cộng, Điều 58 Luật đất đai 1993 có quy định về đất sử dụng vào mục đích công cộng và trích dẫn điều luật này, không có trường hợp như trường hợp dự án KĐT Văn Giang.
Ông Hiển cho biết: Dự án này là dự án đổi đất lấy hạ tầng, đây là lợi ích công cộng. Trên một góc độ nào đó, lợi ích công cộng cũng là lợi ích quốc gia. Lợi ích công cộng khác với mục đích công cộng.
LS Hải đề nghị Bộ TN-MT trả lời bằng văn bản vấn đề này.
11. Hiện những hộ dân vẫn giữ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ) liên quan đến nhà đất bị thu hồi. Vậy giấy tờ này có giá trị không? Tại sao không có quyết định thu hồi đất đến từng hộ dân? (Đề nghị trích rõ điều khoản văn bản pháp luật được áp dụng).
Ông Hiển dẫn chiếu theo điểm e, mục 4, chương 4 Thông tư số 1990/2001 ngày 30/11/2001, giấy CNQSDĐ đã cấp cho diện tích đất đã bị thu hồi thì không còn giá trị.
Luật sư Hải: Quy định trên không còn hiệu lực từ 01/07/2004 (thời điểm Luật đất đai mới có hiệu lực) và việc thu hồi đất trên thực tế diễn ra sau ngày này. Đề nghị Bộ TN-MT cho biết văn bản nào quy định để giải quyết những trường hợp chuyển tiếp giữa 02 luật Đất đai mới và cũ. Đề nghị trích rõ điều khoản nào quy định không cần giao quyết định thu hồi đất cho từng người dân.
Ông Hiển: Chỉ Luật Đất đai năm 2003 và Nghị định 181 mới quy định có quyết định thu hồi đất cho từng người sử dụng đất, còn Luật đất đai 1993 không nói rõ quy định này.
Ông Sơn: Cần phải hiểu Điều 21 và Điều 28 Luật Đất đai 1993 (được sửa đổi bổ sung những năm 1998, 2001) đã quy định QĐ thu hồi đất phải ghi rõ thu hồi đất cho từng người sử dụng đất. Ông Sơn cho biết trong một cuộc đối thoại với Thanh tra Nhà nước, Ông Lê Tiến Hào – Phó Tổng thanh tra có nói với bà con (chúng tôi có ghi âm): “Đây là kết luận của Thanh tra, ruộng vẫn làm, sổ đỏ vẫn có trong tay bà con, bà con không nhận tiền, ruộng vẫn thuộc bà con”.
Ông Hiển: Ông Hào nói thế nào chúng tôi không biết, Thông tư 01 ngày 13/4/2005 đã hướng dẫn việc này, ông đọc một quy định trong Thông tư này.
LS Hải: Thông tư này không nói đến vấn đề thu hồi đất mà không cần có QĐ thu hồi đất cho từng người sử dụng đất. Dự án đổi đất lấy hạ tầng được coi là 1 dạng đầu tư có nguồn vốn từ ngân sách, nên không thuộc điều chỉnh của đoạn ông Hiển vừa đọc (chỉ áp dụng đối với dự án không có nguồn vốn ngân sách).
Bà Đỗ Thị Dơi : Việc thu hồi đất ngay cả cán bộ xã đến năm 2006 cũng không biết, chúng tôi xin đề nghị ông sao văn bản trả lời cho chúng tôi.
Ông Hiển đồng ý sẽ trả lời bằng văn bản.
12. Đề nghị Bộ TN-MT cho biết việc cưỡng chế thu hồi đất đai và hỗ trợ thi công của tỉnh Hưng Yên tại Văn Giang có đúng quy định của Luật Đất đai không? (Nếu đúng, ghi rõ điều khoản văn bản pháp luật được áp dụng).
Ông Hiển nói việc cưỡng chế thu hồi đất và áp dụng biện pháp hỗ trợ thi công là việc của tỉnh Hưng Yên chứ không phải của Bộ TN-MT. Luật đất đai không hướng dẫn trình tự, thủ tục cưỡng chế mà phải theo luật khác. Ông Hiển còn cho biết, trước khi có vụ cưỡng chế này, Thủ tướng Chính phủ (cụ thể Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc) đã có thông báo kết luận, sau khi họp với các ban ngành trung ương và tỉnh Hưng Yên. Nếu bà con có khiếu nại gì về việc cưỡng chế thu hồi đất và hỗ trợ thi công thì thực hiện thủ tục khiếu nại tại Tòa án, tôi biết bà con cũng đang có khiếu nại tại Tòa. Hiện nay Thủ tướng đang giao cho Tổng thanh tra xem xét vấn đề này.
Luật sư Hà Huy Sơn cho biết các quyết định cưỡng chế không phải là quyết định cưỡng chế thu hồi đất theo Luật đất đai, mà là cưỡng chế thực hiện quyết định xử phạt hành chính ( tức cưỡng chế phạt tiền, nếu có).
Luật sư Hải: Ông Hiển đã cho biết, các ban ngành đã họp, tức Bộ TN-MT đã tham gia tham mưu cho Chính phủ và địa phương, sau đó đã kiểm tra lại việc thực hiện ở địa phương nên phải biết rõ việc này, phải có chính kiến đúng sai, không thể nước đôi. Bộ TN-MT quản lý các vấn đề đất đai trên toàn quốc, trong đó có việc thu hồi đất và cưỡng chế thu hồi đất, các nông dân mất đất đang chăm chú theo dõi quan điểm của Bộ TN-MT, vì vậy Bộ TN-MT cần tỏ thái độ dứt khoát.
Ông Đàm Văn Đồng (người dân Văn Giang) đã đưa một nội dung báo chí trong đó đăng ông Bộ trưởng Bộ TN-MT đã cử Thứ trưởng đi kiểm tra, nhưng không gặp người dân Văn Giang, song vẫn nói việc cưỡng chế, thu hồi đất là đúng. Ông Đồng đã lên tận bàn chủ tọa đưa tài liệu này cho ông Hiển.
Buổi đối thoại kéo dài đến 12h30’. Mặc dù vẫn còn rất nhiều vấn đề cần làm rõ, bà con vẫn còn muốn đối thoại tiếp, nhưng luật sư Hải đã khuyên bà con tôn trọng thỏa thuận, tôn trọng Bộ TN-MT, những vấn đề thắc mắc sẽ kiến nghị bằng văn bản tới Bộ TN-MT, ông Hiển cũng đồng ý sẽ trả lời bằng văn bản tất cả những thắc mắc của luật sư cũng như của bà con Văn Giang. Ông Hiển khẳng định sẽ cố gắng đáp ứng được lợi ích chính đáng của bà con nông dân Văn Giang, cho rằng buổi đối thoại này sẽ giúp ích cho Bộ TN-MT trong việc tham mưu cho Nhà nước những vấn đề liên quan đến đất đai, đặc biệt sắp tới Luật đất đai sẽ được sửa đổi toàn diện.
Sau đây là nhận xét chung của luật sư Trần Vũ Hải:
- Đáng tiếc ông Bộ trưởng Bộ TN-MT đã không thực hiện cam kết trực tiếp đối thoại với người dân Văn Giang.
- Bộ TN-MT tỏ ra không chắc về mặt pháp lý nên không dám đưa ra văn bản phản hồi 12 nội dung kiến nghị của luật sư và bà con Văn Giang
- Ghi nhận sự thiện chí của ông Thứ trưởng Bộ TN-MT trong việc điều hành buổi đối thoại và lắng nghe các ý kiến của luật sư và đại diện những hộ dân Văn Giang.
- Tuy nhiên, ông Thứ trưởng đã lúng túng, có thể mới nhận nhiệm vụ về quản lý đất đai, nên chưa nắm chắc các văn bản cũ và mới về Luật đất đai.
(i) Thẩm quyền của Thủ tướng hay của Chính phủ trong việc quyết định những nội dung liên quan đến các quyết định 303/QĐ-TTg và quyết định 742/QĐ-TTg của năm 2004. Bộ TN-MT đã rõ ràng sai khi đưa ra một văn bản năm 2000 có nội dung không còn hiệu lực vào thời điểm đầu năm 2004 để biện minh Thủ tướng có thẩm quyền ra những quyết định này. Luật sư Trần Vũ Hải đã chứng minh có văn bản khác trong năm 2001 đã sửa đổi nội dung trên, quy định rõ thẩm quyền thuộc Chính phủ (không thuộc thẩm quyền của Thủ tướng như quy định trước đây).
(ii) Về 02 dự án liên quan: rõ ràng 02 dự án (dự án KĐT Văn Giang và dự án đường bộ Hà Nội – Hưng Yên) này không được coi là những dự án khả thi được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt theo quy định của Luật đất đai. Hai dự án này trái với những quy hoạch về đất đai và giao thông đã được duyệt trước đó.
(iii) Việc không có quyết định thu hồi đất đến từng hộ dân là rõ ràng vi phạm quyền sử dụng đất của người dân theo Hiến pháp và Luật đất đai, dẫn đến đương nhiên việc cưỡng chế thu hồi đất của huyện Văn Giang và tỉnh Hưng Yên là trái pháp luật vì không thể cưỡng chế công dân thực hiện một quyết định mà họ không được ghi tên là đối tượng phải thực hiện và không nhận được quyết định đó.
Các hộ dân đề nghị VPLS Trần Vũ Hải các bước tiếp theo:
- Yêu cầu Bộ TN-MT trả lời bằng văn bản, nếu cần thiết tổ chức buổi đối thoại trong diện hẹp, nhưng cần công khai, có mặt báo chí.
- Do Bộ TN-MT cho biết, Thanh tra Chính phủ đang thụ lý vụ việc nên cần tiếp tục buổi đối thoại với Tổng Thanh tra
- Do vụ việc liên quan đến nhiều ngành, nên cần tiếp tục yêu cầu Văn phòng Chính phủ tổ chức đối thoại giữa các hộ dân Văn Giang với các ngành liên quan để làm rõ các vấn đề liên quan đến từng ngành.
Phóng viên tự do ghi nhận từ trụ sở Bộ TN-MT vào ngày 21.08.2012