Thứ Ba, 30 tháng 7, 2013

350..hay 700 mét đường 1.000 người thi công

THÀNH ĐOÀN HÀ NỘI NÓI PHÉT, CHÉN ĐẬM

Mượn lời Nhà báo Nguyễn Thông (Thanh Niên) làm lời dẫn cho 2 bài trên Tuổi Trẻ: 
Té ra con đường do 1 nghìn thanh niên tình nguyện thủ đô chen nhau làm không phải dài 700 mét mà chỉ bằng 1 nửa, tức có 350 mét. Sau khi PV báo lao Động ra đo cụ thể và báo lại, một cán bộ lãnh đạo Thành đoàn Hà Nội cãi cối kiểu "chúng tôi khẳng định nó dài 700 mét, còn anh bảo chỉ 350 mét thì kệ anh". Công nhận người trẻ bây giờ bản lĩnh thật, đéo biết sợ cái gì, kể cả sự thật.
Thật đáng sợ. Cán bộ Thành đoàn Hà Nội cho biết con đường "700m" ở huyện Thạch Thất do đoàn làm trị giá 1,5 tỉ, trong đó riêng phần chi phí ăn uống hết 200 triệu đồng. Tôi có ông em họ chuyên thi công các công trình đường giao thông nông thôn bảo rằng nếu với đoạn đường đó (dài 700m (thực ra có 350m), rộng 5m, bê tông dày 10cm nó làm chỉ hết 500 triệu mà ăn nhòe. Đoàn ơi là đoàn.
700m đường... 1.000 người thi công!
29/07/2013 05:34 (GMT + 7) 

TT - Mấy ngày qua, cư dân mạng “dậy sóng” về sự kiện Thành đoàn Hà Nội huy động tới 1.000 thanh niên tình nguyện chỉ để thi công một đoạn đường giao thông nông thôn... 700m. Nhiều ý kiến cho là cách làm phô trương, hình thức, không hiệu quả.

 Mật độ người tham gia thi công ken đặc, ảnh hưởng xấu tới năng suất thi công. Ảnh: LÂM HOÀI

Sự việc diễn ra vào sáng 13-7 tại địa bàn xã Phùng Xá (huyện Thạch Thất, Hà Nội). Quy cách đoạn “đường thanh niên” dài 700m, rộng 5m, tổng giá trị công trình 1,5 tỉ đồng. Trong lễ khởi công, ban tổ chức cho biết dự kiến đoạn đường được hoàn thành trong ba ngày (13 đến 15-7).

Theo Thành đoàn Hà Nội, lực lượng huy động gồm thanh niên tình nguyện và các chiến sĩ Bộ tư lệnh Thủ đô. Công việc chủ yếu của lực lượng tình nguyện là xúc cát, sỏi, ximăng đổ vào máy trộn, sau đó chuyển bêtông đã trộn đến điểm để san phẳng tráng bề mặt. Trước đó chủ đầu tư (UBND huyện Thạch Thất) đã hoàn thiện các công đoạn quan trọng với khối lượng công việc khá lớn gồm thi công cốt đường (nền) và hệ thống thoát nước. Công trình có chi phí đầu tư 3 tỉ đồng.

Với đoạn đường ngắn như vậy nên 1.000 người chen nhau ken đặc. Ông Chu Văn Bảy - chủ tịch UBND xã Phùng Xá - phân trần: “Ở đây là vấn đề tinh thần”.

Trong khi đó, trao đổi với Tuổi Trẻ, ông Lê Thiết Cương - chi cục trưởng Chi cục Phát triển nông thôn Hà Nội, là khách mời trực tiếp dự lễ khởi công công trình này - cho rằng lượng người tại công trường vào thời điểm thi công đông quá mức cần thiết. “Nặng về phong trào, bố trí lực lượng đông như thế thì giẫm đạp vào nhau làm sao được? Như thế tính hiệu quả không cao” - ông Cương nói.

Trong khi đó, bà Nguyễn Thị Ngà - bí thư Thành đoàn Hà Nội - giải thích: “Có thể giá trị ngày công lao động không phải là quá lớn nhưng thể hiện tinh thần của người trẻ với nhiệm vụ chính trị của địa phương. Thành đoàn muốn tạo ra hiệu ứng lan tỏa, phát huy tinh thần xung kích của tuổi trẻ”.

Về số lượng 1.000 người tham gia công trình, bà Ngà lý giải hôm đó không chỉ tham gia thi công tại công trình mà còn kết hợp ra quân chín đội hình về xây dựng nông thôn mới, dọn vệ sinh môi trường trên địa bàn xã Phùng Xá, do vậy ban tổ chức mới huy động cùng lúc đông đảo như vậy.

Theo bà Ngà, Thành đoàn Hà Nội đã tổ chức họp ban chỉ đạo liên quan tới chỉ huy công trường để rút kinh nghiệm các nội dung cho những công việc về sau, ngoài ra Thành đoàn Hà Nội cũng lưu ý những hạn chế cho các hoạt động xung kích khác của giới trẻ thủ đô.
LÂM HOÀI
Nguồn: Tuổi trẻ

1.000 người thi công... 700m đường 
tốn 200 triệu đồng ăn uống
31/07/2013 07:52 (GMT + 7) 

TT - Kinh phí để làm con đường 700m là 1,5 tỉ đồng. Trong đó, kinh phí mua nguyên vật liệu làm đường chiếm khoảng 1,3 tỉ đồng, còn khoảng 200 triệu đồng là chi phí tiền ăn, nước uống.
 
Tại buổi giao ban báo chí do Ban tuyên giáo Thành ủy Hà Nội tổ chức chiều 30-7, đề cập việc huy động 1.000 thanh niên thi công 700m đường (Tuổi Trẻ ngày 30-7), ông Trần Anh Tuấn - phó bí thư Thành đoàn Hà Nội - khẳng định sẽ không huy động cả 1.000 thanh niên ở những công trình “đường thanh niên” tiếp theo.

Ông Tuấn cho biết việc quyết định huy động 1.000 thanh niên làm việc tại công trình “đường thanh niên” ở xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất (Hà Nội) là chủ trương của Thành đoàn Hà Nội. Tuy nhiên theo ông Tuấn, số lượng 1.000 thanh niên tham gia chỉ diễn ra trong buổi sáng khởi công.

“Quan điểm trong hoạt động tình nguyện của Thành đoàn là giáo dục bằng trải nghiệm thực tế, vì vậy mới huy động 1.000 thanh niên trong buổi sáng khởi công. Sau lễ khởi công đã điều động 300 người đi vệ sinh đường làng, ngõ xóm và làm các công việc ý nghĩa ở nghĩa trang. Số lượng thanh niên còn lại được chia thành hai ca luân phiên làm việc trong những ngày tiếp theo. Cả công trình được làm trong ba ngày thì hoàn thành nhưng không phải lúc nào cũng có cả 1.000 người làm việc cùng lúc” - ông Tuấn nói.

Theo ông Tuấn, kinh phí để làm con đường 700m là 1,5 tỉ đồng. “Kinh phí mua nguyên vật liệu làm đường chiếm khoảng 1,3 tỉ đồng, còn khoảng 200 triệu đồng là chi phí tiền ăn, nước uống cho lực lượng tham gia làm đường” - ông Tuấn cho biết thêm.

Ông Tuấn cũng cho biết tới đây Thành đoàn Hà Nội sẽ tiếp tục huy động lực lượng thanh niên tham gia công trình “đường thanh niên” ở huyện Thanh Trì. “Sẽ không huy động cả 1.000 thanh niên cùng lúc, tuy nhiên sẽ có luân phiên về lực lượng để tất cả thanh niên đều có cơ hội trải nghiệm” - ông Tuấn nói.

XUÂN LONG
Nguồn: Tuổi trẻ

DIỄN ĐÀN ĐBND - Ông Trọng Lú thật rồi - Có lẽ sự thật nằm ở dư luận -

DIỄN ĐÀN ĐBND
Cập nhật 08:36 | 31/07/2013 (GMT+7)
.

Viết tiếp Có lẽ sự thật nằm ở dư luận

08:45 | 23/07/2013
Nhân đọc bài Có lẽ sự thật nằm ở dư luận của Văn Bông, chợt nhớ chuyện Chủ tịch QH Khóa XII.
Hồi ấy, khi Ông nhậm chức Chủ tịch QH, là người làm báo xuất thân từ khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp, tôi có ý chê Ông khi Ông đọc câu Kiều Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn.Tôi nói với cương vị ấy, sao Ông lại lẩy câu Kiều ở hoàn cảnh ấy của Kiều. Sau này hiểu hơn, tôi mới thấy thông cảm vì tôi biết Ông thật sự chân thành.
Trước đấy, dư luận về Ông không nhiều, nhưng không phải dư luận hay, Ông được ghép chữ LÚ ngay sau tên của mình cùng vần vè với người khác gán với chữ tham, chữ gian, chữ gì gì nữa, nói chung là chẳng hay ho gì. Đọc cả câu ấy, phải sau rất nhiều năm, và hình như cho đến bây giờ tôi mới thật hiểu. Hiểu ra cái thâm thúy của dân gian: Họ chê người ta. Họ khen Ông bằng cái cười mỉm, nụ cười thoáng qua như Nguyễn Ái Quốc tả nụ cười của Phan Bội Châu. Ấy là, Ông sạch, sạch quá, mình Ông sạch. Sạch như Ông chắc phải như Khuất Nguyên mà tìm tới sông Mịch La thôi, sạch như thế với thói đời xưa nay bẩn, thì là lú lẫn thật rồi.
Anh Đông, thư ký của Ông kể, khi về nhận Bí thư Thành ủy Hà Nội, Ông xòe bàn tay bảo, mình với cậu thi đua nhé. Hai bàn tay ấy hôm nay vẫn còn trắng.
Dài dòng như vậy về dư luận chỉ để nhớ lại chuyện cách đây 4 năm Ông gọi Tổng biên tập Báo Người đại biểu nhân dân tới gặp Ông, Ông hỏi chuyện làm báo, hỏi chuyện thu nhập của anh em và hỏi thật khéo hoài bão của người phụ trách tờ báo... Sau đó, Ông với tư cách Chủ tịch QH đã ký Nghị quyết 816 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đổi tên Báo thành Báo Đại biểu nhân dân, nâng cấp thành Báo loại I, cấp tổng cục và trực tiếp ký Nghị quyết bổ nhiệm Tổng biên tập Báo ĐBND cho đồng chí Hồ Anh Tài. Anh Trần Đình Đàn, Chủ nhiệm VPQH lúc đó kể lại có ý kiến đề nghị phụ cấp cho Tổng biên tập là 1,3, nhưng nếu phụ cấp 1,3 thì quyền ký quyết định lại thuộc Ban Tổ chức Trung ương, còn phụ cấp 1,25 thì thuộc lĩnh vực QH quyết. Đắn đo một chút, Chủ tịch QH Khóa XII quyết định để chính mình ký nghị quyết bổ nhiệm.
Nhưng, cũng vẫn theo nguyên Chủ nhiệm VPQH Trần Đình Đàn, ở Nghị quyết 816 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa XII có điều khoản lúc đầu được soạn như sau: Văn phòng Quốc hội là cơ quan chủ quản của Báo Đại biểu nhân dân. Ông Chủ tịch QH Khóa XII đọc rất kỹ và hạ bút thêm vào hai chữ Văn phòng Quốc hội là cơ quan chủ quản của Tòa soạnBáo Đại biểu nhân dân. Ông giải thích như thế phù hợp với Luật Báo chí là có cơ quan chủ quản, nhưng VPQH quản lý Báo ĐBND về mặt hành chính, còn Báo ĐBND là Tiếng nói của Quốc hội nên chỉ đạo nội dung là Thường vụ Quốc hội và giao cho anh Uông Chu Lưu, Phó chủ tịch QH chỉ đạo nội dung của Báo.
Kỹ lưỡng đến thế, chặt chẽ từ pháp lý đến tình người như thế còn được mấy ai nhỉ?
Hồi mới có Nghị quyết Trung ương 4, dân và cán bộ thì thích, nhưng có kẻ ghét, có kẻ đặt điều bảo nghe nói chụp được cả ảnh bà nhà ông ấy nhận phong bì. Anh em có hỏi, tôi có nói: Họ không nói được gì ông ấy thì họ bảo bà ấy, như tôi biết bà ấy không có tính ấy, tay bà ấy không biết cầm cái phong bì đâu. Ai biết cầm nhìn biết liền.
Ấy là vì Văn Bông đã viết ra thì tôi đành viết thêm thôi chứ không có ý gì khen chê. Bởi, dư luận có khi có cái ranh mãnh của nó. Như, có người bảo Nghị quyết Trung ương 4 có làm gì được ai đâu. Thế thì, ngẫm mà xem, sao có nhiều kẻ xấu sợ nó đến thế?
Thăng Long

TRỰC TIẾP: BIỂU TÌNH TRƯỚC CỬA TÒA SOẠN CÔNG AN NHÂN DÂN

TRỰC TIẾP: BIỂU TÌNH TRƯỚC CỬA TÒA SOẠN CÔNG AN NHÂN DÂN



Đúng như một Thông báo được đưa ra vào tối qua, 09h00 sáng nay, 31/07/2013, Bà Dương Thị Tân và anh Nguyễn Trí Dũng là vợ và con của Anh Nguyễn Văn Hải (tức Điếu Cày) tù nhân đang tuyệt thực tại Trại 6 - Bộ Công An, cùng các thân hữu bè bạn đã có mặt tại Toà soạn báo Công An Nhân Dân, số 100 Yết Kiêu (92 Nguyễn Du, Hà Nội) để yêu cầu gặp mặt và đối chất với Tổng Biên tập và nhà báo Vũ Đại Phong về bài báo "Lật tẩy “chiêu tuyệt thực” của Nguyễn Văn Hải" đăng trên báo Công an Nhân dân lúc 22:14:00 29/07/2013.





Nguyễn Thùy Linh - Tam giác quỷ !

Trung Quốc ăn bé Soup for Sex

Nhà Văn Đại tá Phạm Đình Trọng - Bóng đen phía sau bản án Điếu Cày

Bóng đen phía sau bản án Điếu Cày

Phạm Đình Trọng gửi RFA
2013-07-29
 
Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này
1336457136-305.jpg
Blogger Điếu Cày (thứ 4 từ trái sang), Tạ Phong Tần (thứ 4 từ phải sang) cùng các thành viên CLB Nhà báo Tự do chụp tháng 12/2007
Photo courtesy of vietinfo
Với tang chứng rất mơ hồ từ những bài báo của CLBNBTD (Câu lạc bộ Nhà Báo tự do) mà Điếu Cày Nguyễn Văn Hải là nhân vật chủ chốt, tòa án của Nhà nước Cộng sản Việt Nam buộc Điếu Cày tội tuyên truyền chống Nhà nước và giáng cho anh 12 năm tù giam, 5 năm quản chế sau tù. Mức án nặng đến man rợ! Vì mức án man rợ không bình thường đó người ta phải truy tìm đến bản chất thật của vụ án Điếu Cày là gì.
Không thể gán tội cho những bài viết
Tháng chín năm 2007 Điếu Cày mới lập ra CLBNBTD thì tháng tư năm 2008 anh đã bị bắt vì tội trốn thuế. Bảy tháng hoạt động với ba người đều không có nghề báo. Một người làm khinh doanh. Hai người làm nghề luật. CLBNBTD chưa làm được gì đáng kể, chẳng có bài báo nào để lại được dấu ấn cho CLBNBTD, không gây được chú ý cho người đọc. Vì thế, cố gán cho ba thành viên CLBNBTD tội tuyên truyền chống Nhà nước nhưng cáo trạng cũng không thể nêu được ra bài nào chống Nhà nước và chống Nhà nước như thế nào? Đành phải thống kê ra những con số vô hồn, câm lặng, không nói được điều gì: Số bài viết đăng trên trang mạng CLBNBTD 421 bài, trong đó ba thành viên viết 94 bài, còn 327 bài tải từ các trang mạng khác về. Rồi lại phải nhờ đến cơ quan không có nghiệp vụ pháp lí, không có chức năng, không đủ tư cách và không đủ sức giám định văn bản chính trị là sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Sài Gòn giám định những bài viết của CLBNBTD. Thực chất việc giám định chỉ là thủ tục và người giám định chỉ viết theo ý cường quyền.  Dù vậy cũng chỉ có được bản nhận định rất chung chung, gượng ép về nội dung chống Nhà nước của CLBNBTD.
Tội tuyên truyền chống Nhà nước ở những bài viết của CLBNBTD vu vơ, nhạt nhòa đến mức ngay hệ thống tư pháp Nhà nước rất muốn trị tội Điếu Cày, lúc đầu cũng không thể gán tội cho những bài viết đó vì thế họ phải dựng lên tội trốn thuế.
Khi tội trốn thuế được định tên, dù không chấp nhận, gia đình Điếu Cày vẫn xin truy nộp để khắc phục nhưng không được cơ quan tư pháp cho khắc phục mà quyết đưa Điếu Cày ra tòa. Đó cũng là điều vô cùng bất thường. Trốn thuế chỉ là tội kinh tế, không gây nguy hiểm cho xã hội, số tiền lại quá nhỏ, chỉ vài trăm triệu đồng. Quan hệ giữa người dân đóng thuế và Nhà nước thu thuế là quan hệ dân sự, hành chính. Quan hệ giữ người dân có công đóng thuế nuôi Nhà nước và Nhà nước chịu ơn người dân đóng thuế nuôi mình. Người đóng thuế chưa nộp thuế đầy đủ, Nhà nước phải tạo điều kiện và hướng dẫn cho người dân khắc phục số tiền thuế còn thiếu. Không cho người dân được truy nộp thuế, quyết đẩy người dân thành tội phạm, Nhà nước đã hình sự hóa một quan hệ dân sự. Đó là việc cố tạo dựng tội cho người dân lương thiện, cố biến người đang kinh doanh đóng thuế nuôi Nhà nước thành người ngồi không ăn cơm tù để Nhà nước phải nuôi!
Tư tưởng chính thống của Nhà nước Việt Nam hiện tại là kiên định chủ nghĩa Mác Lê nin. Viết bài không tán thành nền tảng tư tưởng Mác Lê nin và những chủ trương, chính sách, việc làm theo tư tưởng Lê nin nít thì những bài viết của Điếu Cày và CLBNBTD không thể so được với những bài viết thẳng thắn của nhiều người đã viết từ hơn chục năm trước.
Tiến sĩ Hà Sĩ Phu với những tác phẩm dày dặn đã thẳng thừng bác bỏ chủ nghĩa Mác Lê nin, bác bỏ tư tưởng chính thống của đảng Cộng sản và Nhà nước đương quyền: “Thực chất chủ nghĩa Mác Lê nin chỉ là một khát vọng đẹp đẽ nhưng ảo tưởng, phi khoa học, chống lại qui luật tự nhiên”. Những tác phẩm của tiến sĩ Hà Sĩ Phu như Dắt Tay Nhau Đi Dưới Tấm Biển Chỉ Đường Của Trí Tuệ, Chia Tay Ý Thức Hệ như tiếng sét, như tia chớp làm nhiều người Việt Nam bừng tỉnh thoát khỏi cơn mê sảng lầm lạc trong mớ lí thuyết huyễn hoặc của chủ nghĩa Mác Lê nin. Tầng lớp trí thức tiếp nhận những bài viết của tiến sĩ Hà Sĩ Phu như tiếp nhận một chân lí hiển nhiên, một sự thật bình dị mà lâu nay họ không nhận ra.
Bác bỏ chủ nghĩa Mác Lê nin, tiến sĩ Hà Sĩ Phu cũng bác bỏ nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Cộng sản gây thiệt hại cho nước, gây tai họa cho dân. Những bài viết của tiến sĩ Hà Sĩ Phu đã giải thiêng chủ nghĩa Mác Lê nin, giải độc cho xã hội Việt Nam, thức tỉnh nhiều người dân Việt Nam, tạo nên một đội ngũ, một lực lượng xã hội đông đảo, mạnh mẽ đòi tự do dân chủ, đòi quyền con người, quyền công dân, đòi đa nguyên, đa đảng, xóa bỏ sự độc quyền quyền lực của đảng Cộng sản. Những bài viết mang tư tưởng không đồng thuận với đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam Xã hội chủ nghĩa của tiến sĩ Hà Sĩ Phu có tác động xã hội sâu rộng và mạnh mẽ như vậy thực sự rất bất lợi cho Đảng và Nhà nước Cộng sản Việt Nam. Một Nhà nước quyền uy, say bạo lực, cai trị dân bằng bạo lực chuyên chính vô sản thì không thể tha thứ cho những bài viết của tiến sĩ Hà Sĩ Phu phản bác lại Đảng và Nhà nước Cộng sản vậy mà Nhà nước Cộng sản Việt Nam cũng không thể buộc tiến sĩ Hà Sĩ Phu tội tuyên truyền chống Nhà nước!
Tiến sĩ Hà Sĩ Phu công bố tác phẩm Dắt Tay Nhau Đi Dưới Tấm Biển Chỉ Đường Của Trí Tuệ năm 1988, đến cuối năm 1995 bộ máy công cụ bạo lực mới tìm được cơ hội đưa tiến sĩ vào tù bằng một tội từ trên trời rơi xuống. Tiến sĩ Hà Sĩ Phu đang thong dong đạp xe trên đường phố Hà Nội thì có người đi xe máy cố ý quyệt vào xe ông làm cho ông ngã. Công an giăng sẵn trên đường liền xô lại. Kẻ gây tai nạn thì được tự do. Người bị nạn thì bị bắt giữ đưa về đồn công an. Bản sao bức thư ông Thủ tướng Võ Văn Kiệt gửi Ban Chấp hành trung ương đảng Cộng sản Việt Nam mà công an khám thấy trong túi xách tiến sĩ Hà Sĩ Phu liền được công an sử dụng làm tang chứng cho tội “Có hành vi tiết lộ bí mật Nhà nước” để tiến sĩ Hà Sĩ Phu phải nhận bản án một năm tù giam!
Nhắc lại chuyện tiến sĩ Hà Sĩ Phu để càng thấy rằng Điếu Cày không có tội. Buộc cho Điếu Cày tội tuyên truyền chống Nhà nước là hoàn toàn áp đặt, ngang trái, vi Hiến và phiên tòa tuyên Điếu Cày 12 năm tù 5 năm quản chế là phiên tòa không có công lí. Phiên tòa bộc lộ rất rõ mưu đồ độc ác hãm hại một khí phách Việt Nam, một tâm hồn Việt Nam nồng nàn yêu nước.
Bị kết tội vì Hoàng Sa, Trường Sa?
1336457136-250.jpg
Blogger Điếu Cày trong một lần bị công an bắt.
Hoạt động xã hội nổi bật nhất của Điếu Cày không phải là những bài viết trên trang mạng CLBNBTD mà là ở những hoạt động phản đối Tàu Cộng xâm chiếm đất đai, biển đảo Việt Nam.
Với chiếc máy ảnh trước ngực, Điếu Cày lặn lội lên mảnh đất đầu cùng của Tổ quốc Việt Nam ở Đàm Thủy, Trùng Khánh, Cao Bằng chụp ảnh thác Bản Giốc, ghi vào hình ảnh một mảnh đất Việt Nam yêu thương đã bị giặc Tàu chiếm đoạt. Thời thực dân Pháp chiếm nước ta, Pháp đô hộ dân ta, Pháp làm chủ nước ta, toàn bộ thác Bản Giốc còn là của Việt Nam, đường biên giới còn cách xa thác về phía Bắc tới 12 cây số. Thời đảng Cộng sản Việt Nam làm chủ đất nước Việt Nam, thác Bản Giốc chỉ còn phần nửa dưới thấp, phần thác cao hùng vĩ đã thuộc Tàu Cộng rồi! Điếu Cày chụp ảnh thác Bản Giốc, chụp ảnh vết thương nhức nhối trên cơ thể Tổ quốc Việt Nam đưa lên trang mạng.
Điếu Cày cầm bảng chữ Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam đi đầu trong những cuộc biểu tình liên tiếp, sôi sục đầu năm 2008 phản đối Tàu Cộng đưa Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam vào đơn vị hành chính Tam Sa của Tàu Cộng.
Đúng ngày Tàu Cộng đánh cướp quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam 34 năm trước, ngày 19. 1. 2008, đúng khi Tàu Cộng đang tưng bừng rước ngọn đuốc Olympic Bắc Kinh đi khắp thế giới và ngọn đuốc đó sắp qua Sài Gòn thì Điếu Cày cùng những người bạn mặc đồ đen để tang Hoàng Sa, trên ngực áo có biểu tượng năm vòng tròn Olympic Bắc Kinh là năm chiếc còng số 8 cạnh hàng chữ Pekin 2008. Nhìn Điếu Cày đứng cao trên thềm Nhà Hát Lớn Sài Gòn ngực áo mang biểu tượng Olympic Bắc Kinh chỉ là những chiếc còng số 8, tay giương cao bảng chữ “Hoàng Sa, Trường Sa Của Việt Nam” bằng chữ Việt, chữ Anh, chữ Tàu, những kẻ cướp Hoàng Sa của Việt Nam đang có mặt lúc nhúc đầy Sài Gòn hẳn phải bầm gan tím ruột. Vì sự bầm gan tím ruột đó và cũng vì ngọn đuốc Olympic Bắc Kinh khi đến Sài Gòn phải được chào đón tưng bừng, 9 ngày trước khi ngọn đuốc Olympic Bắc Kinh đến Sài Gòn, Điếu Cày bị bắt.
Với những tình tiết trên đủ để nhận ra quyền lực đòi hỏi phải bắt Điếu Cày không phải là quyền lực Nhà nước Việt Nam. Điếu Cày chỉ bị ba mươi tháng tù về tội trốn thuế cũng chưa làm cho quyền lực đó hả dạ. Vì thế, sau khi mãn hạn tù trốn thuế, 10.2010, Điếu Cày lại bị đưa đi biệt tăm để chờ sự trừng phạt đủ sức hủy hoại Điếu Cày!
Trong thời gian Điếu Cày bị giam trong bóng tối vô định, có một sự kiện xảy ra cách xa Điếu Cày hàng vạn dặm mà dường như có liên hệ đến số phận Điếu Cày. Đó là sự kiện Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đi thăm Tàu Cộng đã cùng Tổng bí thư đảng Cộng sản Tàu Cộng Hồ Cẩm Đào kí bản Tuyên bố chung tám điểm ngày 15. 10. 2011.
Điểm thứ tư của Tuyên bố chung có sáu việc thì việc thứ năm là: “Đi sâu hơn nữa hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực thi hành pháp luật và an ninh; .  .  . Tăng cường giao lưu và hợp tác giữa các cơ quan như tòa án, viện kiểm sát, công an, hành chính tư pháp; .  .  . tăng cường phối hợp và ủng hộ lẫn nhau trong việc giữ gìn ổn định trong nước của mình.” Thực tế trong quan hệ giữa Tàu Cộng với Việt Nam, giữa nước lớn quen thói trịch thượng, lấn lướt, áp đặt cho nước nhỏ thì “đi sâu hợp tác, tăng cường phối hợp giữa các cơ quan công an, tòa án hai nước” chỉ để cho cơ quan công an, tòa án Tàu Cộng nhảy vào các vụ việc, can thiệp, áp đặt buộc công an, tòa án Việt Nam phải thực hiện mà thôi.
Ngày 15. 10. 2011 Tuyên bố chung Việt – Tàu “đi sâu hợp tác, tăng cường phối hợp giữa các cơ quan công an, tòa án hai nước” được kí kết ở Bắc Kinh. Ngày 24. 9. 2012, người đàn ông sáu mươi tuổi Điếu Cày bị kêu mức án man rợ 12 năm tù, 5 năm quản chế bởi một tội danh áp đặt, gượng ép: Tuyên truyền chống Nhà nước, trong phiên tòa bịt bùng công an, mật vụ ở Sài Gòn.
Điều bất thường nữa là, tòa án định tội và bị cáo nhận tội là việc ở tòa án. Nhà tù chỉ quản lí việc thi hành án của người tù. Nhưng nhà tù số 6 Thanh Chương, Nghệ An đã làm công việc của tòa án, ép người tù Điếu Cày kí vào bản nhận tội. Điếu Cày quyết liệt không kí liền bị quản giáo tống vào biệt giam. Bị biệt giam vô lí và bị đối xử tàn ác, phi pháp, Điếu Cày gửi đơn tố cáo lên viện Kiểm sát tỉnh Nghệ An. Chờ đợi không thấy Viện Kiểm sát trả lời, Điếu Cày phải tuyệt thực đòi công lí.
Lần theo sự việc để xác định thời điểm Điếu Cày bị ép kí bản nhận tội: Bị ép nhận tội. Bị biệt giam và ngược đãi. Gửi đơn tố cáo lên viện Kiểm sát. Chờ không thấy viện Kiểm sát trả lời đơn. Tuyệt thực. Tuyệt thực là hành động sau cùng trong chuỗi sự việc trên. Điếu Cày bắt đầu tuyệt thực từ 22. 6. 2013 thì nhà tù ép Điếu Cày kí vào bản nhận tội vào khoảng từ ngày 10 đến ngày 15 tháng sáu, tạm xác định mốc thời gian cụ thể là ngày 12. 6. 2013
Lại phải nhắc đến một sự kiện diễn ra cách xa Điếu Cày vạn dặm mà dường như có liên hệ đến việc nhà tù số 6 phải đường đột làm cái việc không thuộc chức năng của nhà tù là ép người tù Điếu Cày kí bản nhận tội: Sự kiện Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đi thăm Tàu Cộng.
12. 6. 2013, Điếu Cày bị ép phải kí vào bản nhận tội.
19. 6. 2013, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đi Tàu
Chữ kí nhận tội của Điếu Cày cần cho Nhà nước Cộng sản Việt Nam trong đối ngoại, để Nhà nước Cộng sản Việt Nam chứng minh với thế giới rằng Việt Nam không có tù chính trị, chỉ có tù hình sự vi phạm pháp luật. Chữ kí nhận tội của kẻ vi phạm pháp luật đây. Chữ kí nhận tội của Điếu Cày càng cần cho những kẻ muốn khuất phục ý chí độc lập tự chủ của những người Việt Nam yêu nước thương nòi.
Trước chuyến đi Tàu của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, nhà tù số 6 Thanh Chương, Nghệ An lồng lộn ép Điếu Cày phải kí bản nhận tội càng thấy rõ bản án độc ác, man rợ dành cho Điếu Cày đến từ đâu. Vì cái văn bản thỏa thuận của ông Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam kí với Tổng bí thư đảng Cộng sản Tàu “Đi sâu hợp tác, tăng cường phối hợp giữa các cơ quan công an, tòa án hai nước” mà công an, tòa án Việt Nam đang nhẫn tâm, lạnh lùng đầy đọa đến chết một khí phách Việt Nam, Điếu Cày Nguyễn Văn Hải!





Thứ bảy, ngày 28 tháng mười một năm 2009

Đại tá, nhà văn Phạm Đình Trọng tự ra khỏi Đảng

Đại tá, nhà văn Phạm Đình Trọng
Thời thanh niên, lứa chúng tôi đã được đọc những tác phẩm đấy chất lính của anh bộ đội trẻ Phạm Đình Trọng, nhất là những truyện ký về hải quân. Nghe tin ông tự ra khỏi Đảng (đã có gần 40 năm tuổi Đảng), tôi cũng muốn tìm hiểu xem sao. Và đây là Thư thông báo của ông đại tá văn sĩ.

Kính gửi:
- CHI ỦY VÀ CHI BỘ 4
- ĐẢNG ỦY PHƯỜNG 15 QUẬN TÂN BÌNH TPHCM
Tội là Phạm Đình Trọng, nhà văn, là đảng viên Cộng sản lớp Hồ Chí Minh từ 19.5.1970. Đến nay, 20.11.2009, tôi tự thấy đảng Cộng sản không còn phù hợp với lí tưởng thẩm mĩ và giá trị nhân văn mà tôi theo đuổi nên tôi tự rút ra khỏi đảng. Thiếu vài tháng nữa, tôi tròn 40 năm là người Cộng sản. Từ lúc tự nguyện đứng vào hàng ngũ Cộng sản, đến tự rút ra khỏi đảng là một quá trình chuyển biến trong tôi, từ nhận thức bằng tình cảm sang nhận thức bằng lí trí và cũng là quá trình chuyển biến của chính đảng Cộng sản, từ ý chí vì dân, vì nước sang ý chí chỉ vì sự tồn tại của đảng. Tôi xin trình bày về quá trình hai chuyển biến đó, một chuyển biến thuận, tất yếu, hợp qui luật phát triển và một chuyển biến nghịch, tiêu cực, thóai hóa.
I. TÌNH CẢM ĐƯA TÔI ĐẾN LÍ TƯỞNG CỘNG SẢN
Sinh ra trong không khí sôi sục của cuộc cách mạng đã khai sinh ra nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đưa những người cộng sản lên nắm chính quyền. Cuộc cách mạng ấy như cũng khai sinh ra thế hệ chúng tôi, một thế hệ của cách mạng, của nhà nước mới. Cả tuổi thơ, cả tuổi cắp sách đến trường của tôi được sống trong không khí thần thoại của những câu chuyện về lớp người Cộng sản tiền bối chiến đấu hi sinh vì dân, vì nước. Lí tưởng của những người Cộng sản ấy đã trở thành lí tưởng, thành lẽ sống của thế hệ chúng tôi. Cốt cách lương thiện và dũng cảm của những người Cộng sản ấy cũng là khuôn mẫu cho cốt cách của lứa chúng tôi.
Rời trường trung học vào bộ đội rồi đi vào cuộc kháng chiến chống Mĩ xâm lược, chúng tôi lại gặp những người Cộng sản bằng xương bằng thịt vô cùng cao đẹp ở mọi nơi gian nan ác liệt. Máy bay Mĩ tập trung đánh hủy diệt một trận địa pháo cao xạ ở miền Tây Quảng Bình. Người Cộng sản trẻ tuổi Nguyễn Viết Xuân bị đạn bắn nát đùi vẫn bám thành công sự phất lá cờ đỏ dõng dạc chỉ huy: Nhằm thẳng quân thù, bắn! Với cuộc sống anh hùng đó, với lí tưởng đã có, chúng tôi trở thành người Cộng sản như là lẽ đương nhiên. Chủ tịch Hồ Chí Minh mất, đảng phát động đợt kết đảng viên lớp Hồ Chí Minh. Ngay sau lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh, tôi viết đơn xin vào đảng. Lễ kết nạp lớp đảng viên Hồ Chí Minh đầu tiên của cơ quan chính trị Bộ Tư lệnh Thông tin tổ chức đúng vào ngày 19. 5. 1970.
Con vào đảng vào ngày sinh của Bác
Mười chín, tháng năm, năm một ngàn chín trăm bảy mươi
Ba mươi tuổi Bác thành người Cộng sản
Để cho con hai mươi sáu tuổi được là đồng chí của Người
Thơ tôi ghi nhận ngày tôi trở thành người Cộng sản. (Sau này, chuyển sinh họat đảng qua nhiều nơi, ngày vào đảng của tôi bị ghi sai thành 12. 5. 1970)
Vào đảng, rồi tốt nghiệp trường Sĩ quan Thông tin, đeo ba lô đi trong bạt ngàn màu xanh Trường Sơn vào mặt trận Tây Nguyên, tôi viết về đảng:
Nâng niu sự sống trong lòng
Đất là mẹ của trái tròn mầm xanh
Bao nhiêu trong mát ngọt lành
Đất chắt chiu để cây cành đơm hoa.
Đảng là đất mẹ bao la
Ta là chồi biếc đó mà, hỡi em!
Lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đảng đã đồng hành cùng dân tộc. Đặt dân tộc lên trên, đảng đã chấp nhận những hi sinh to lớn vì độc lập dân tộc. Với nhận thức đó, tôi đến với đảng hòan tòan bằng tình cảm của một trái tim khao khát lí tưởng cống hiến. Với tư cách người Cộng sản, tôi đã vững vàng vượt qua mọi gian khổ, ác liệt, đi qua suốt cuộc kháng chiến chống Mĩ khốc liệt để viết về thế hệ của tôi, viết về thời đại của tôi và tôi trở thành nhà văn quân đội.
II. LÍ TRÍ CHO TÔI NHẬN THỨC LẠI
1. Từ cơ sở đảng cho tôi sự thức tỉnh
Con người được thử thách, tôi luyện trong chiến tranh, năng lực được khẳng định bằng trang viết cho tôi một tư thế của khí phách và một cái nhìn biện chứng, thấu đáo. Với tư thế ấy tôi đã lên tiếng thẳng thắn chỉ ra sự mua quan bán chức của ông Thứ trưởng kiêm Tổng biên tập Thời báo Tài chính Việt Nam Tào Hữu Phùng và ông Phó tổng biên tập Đào Ngọc Hùng đã đưa một người bị đào thải ở nơi khác và không viết nổi một mẩu tin lên trưởng chi nhánh phía Nam Thời báo Tài chính Việt Nam dẫn đến những đổ vỡ, bê bối lớn và làm tê liệt chi nhánh phía nam đến tận hôm nay. Đầu tư lớn để có chức thì phải triệt để dùng chức nhanh chóng thu lại vốn đầu tư. Trong lúc nhiều tờ báo cảnh báo việc hủy diệt môi trường của công ty Vedan thì ông trưởng chi nhánh Thời báo Tài chính không viết nổi một mẩu tin đã cùng một cộng tác viên đến Vedan viết bài đăng Thời báo Tài chính Việt Nam tấm tắc ngợi ca môi trường Vedan trong lành. Sức mạnh và quyền uy của cả một đảng ủy cơ quan đại diện Bộ Tài chính được huy động trấn áp, truy bức tiếng nói sự thật của tôi để việc mua quan bán chức trót lọt và tồn tại đến tận hôm nay! Đi xa hơn, họ còn vội vã, độc đoán chuyển tôi về sinh hoạt đảng tạm tại nơi cư trú để họ thông qua mau lẹ việc kết nạp đảng cho người mua chức, giúp người mua chức có được chuẩn mực quan trọng của chức danh.
Sự việc trên không phải là cá biệt của cơ sở đảng. Trong lúc nước còn nghèo, dân còn khổ, lòng nhân đạo cả thế giới còn phải dồn về Việt Nam làm từ thiện giúp đỡ người nghèo thì vẫn có những quan chức, đảng viên mang cả triệu đô la đi đánh bạc và sống sa đọa nhưng ở chi bộ họ vẫn được xét là đảng viên bốn tốt!
Bây giờ đảng ở cơ sở, đảng ở cấp thấp là vậy đó! Còn đảng ở cấp cao? Đó là những tín điều, những chủ trương ngược với lợi ích dân tộc!
2. Vì tín điều Cộng sản, vất bỏ lợi ích dân tộc
A. Đưa giai cấp lên trên dân tộc làm cho dân tộc tan rã, li tán, suy yếu
Điều lệ đảng Cộng sản Việt Nam ghi: Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc.
Giai cấp công nhân là một khái niệm quá chung chung, rộng lớn trên phạm vi thế giới, chỉ có định tính mà không có định hình vì thế cũng khá trừu tượng, không xác định được không gian, không ổn định trong thời gian, không có bản sắc văn hóa riêng và giai cấp công nhân cũng chỉ mới xuất hiện vài trăm năm gần đây cùng với sự xuất hiện của máy hơi nước, máy phát điện. Với Việt Nam, giai cấp công nhân lại càng mới mẻ, mới có từ đầu thế kỉ trước cùng với sự khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Công nhân chỉ là một hình thái lao động của cả loài người, không của riêng dân tộc nào. Trong khi đó dân tộc là một khái niệm thiêng liêng, là hồn cốt của mỗi con người tồn tại trên thế gian này. Dân tộc là một thực thể đã tồn tại hàng ngàn năm, có không gian sinh tồn được xác định bằng lịch sử, bằng công pháp. Dân tộc có bản sắc văn hóa, tinh hoa văn hóa riêng. Mỗi dân tộc có mặt đến hôm nay đều phải có một tinh hoa văn hóa không thể bị đồng hóa với nền văn hóa khác. Nhiều dân tộc đã tạo nên những nền văn minh rực rỡ đưa loài người bước những bước dài trên đường tiến hóa. Văn hóa dân tộc là hạt nhân tập hợp cả cộng đồng tạo nên dân tộc. Mỗi dân tộc trên thế giới góp phần làm rạng rỡ, lung linh thêm phẩm chất NGƯỜI của Nhân loại bằng văn hóa của dân tộc mình. Đơn vị của một cộng đồng người là dân tộc chứ không phải là giai cấp. Không cộng đồng nào có mặt trong gia đình Nhân loại với danh xưng giai cấp công nhân!
Đưa giai cấp công nhân lên trên hết, trở thành chủ thể, điều lệ đảng Cộng sản đẩy dân tộc xuống cuối cùng là sự bất công phũ phàng. Trong thực tế, sự đối xử của đảng Cộng sản với dân tộc còn là sự phủ nhận cay đắng.
Chống ngoại xâm, đưa ra mục tiêu giải phóng dân tộc là đảng Cộng sản đã đồng hành cùng dân tộc, điều đó giúp đảng Cộng sản có sức mạnh vô địch. Nhưng cùng với chống ngoại xâm, với học thuyết chuyên chính vô sản của tín điều Cộng sản, đảng Cộng sản còn tiến hành cuộc đấu tranh giai cấp vô cùng khốc liệt đánh thẳng vào khối đoàn kết dân tộc, đánh tiêu diệt những tinh hoa của dân tộc!
. Cải cách ruộng đất danh nghĩa là đánh đổ tầng lớp bóc lột ở nông thôn nhưng những gì diễn ra đã chứng tỏ rằng đó là cuộc phát động gây hận thù ngay trong lòng dân tộc. Lấy bạo lực chuyên chính vô sản đánh vào giá trị văn hóa, đánh vào đạo lí gia đình, đánh vào văn hóa làng quê, đánh cả vào tín ngưỡng tâm linh, những nền tảng của văn hóa dân tộc.
. Cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh đã phá sạch cơ sở vật chất của nền sản xuất công nghiệp tư nhân vừa hình thành, biến những người chủ giỏi tính toán làm ăn, biết gây dựng cơ đồ thành trắng tay, thành người làm thuê bằng cơ bắp. Dân tộc Việt Nam thông minh, thao lược đã tạo ra những doanh nhân tài ba Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Sơn Hà, Trịnh Văn Bô . . . ngang sức đua tranh với những nhà tư sản của nước Pháp công nghiệp phát triển để bắt đầu xây dựng một nền công nghiệp tư nhân phát triển ở Việt Nam. Cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền Bắc không những phá sạch cơ sở công nghiệp tư nhân ban đầu đó mà còn chối bỏ, kìm hãm tài năng, trí tuệ nhân dân. Chỉ sử dụng cơ bắp làm thuê làm cho nền kinh tế miền Bắc thụt lùi hàng trăm năm. Tiếp tục cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền Nam đã đưa kinh tế cả nước xuống vực thẳm, đưa dân tộc Việt Nam thông minh, tài giỏi tới nghèo khổ, hèn mọn. Dòng người bỏ nước ra đi kéo dài trong nhiều năm đến sống vạ vật ở những trại tị nạn khắp thế giới là hình ảnh của sự hèn mọn ấy. Đổi mới, trở lại kinh tế thị trường chỉ là trở lại cung cách làm ăn thông thường, phổ biến của cả thế giới, trở lại với tư bản, tư doanh mà trước đó đã hai lần bị cải tạo, bị xóa sổ tức tưởi. Trở lại kinh tế thị trường là sự xóa bỏ đầu tiên nguyên lí cơ bản của tín điều Cộng sản đã cứu được nhân dân khỏi sự khốn cùng, cứu được nhà nước khỏi sụp đổ.
. Vụ án Nhân văn Giai phẩm là sự dằn mặt của chính quyền công nông, của nhà nước chuyên chính vô sản với đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ. Nhân văn Giai phẩm chính là cuộc cải cách ruộng đất đối với trí tuệ đã dập tắt thê thảm những quầng sáng rực rỡ nhất của trí tuệ Việt Nam, vùi dập những trí tuệ Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo…, vùi dập tàn nhẫn những tinh hoa sáng nhất của dân tộc.
Suốt chiều dài lịch sử, luôn phải đối đầu với những lực lượng xâm lược khổng lồ nhưng dân tộc Việt Nam nhỏ bé vẫn tồn tại được đến hôm nay là nhờ tâm hồn Việt Nam đã tạo nên nền văn hóa Việt Nam đặc sắc, sâu đậm, bền vững cùng núi sông Việt Nam, là nhờ ý thức dân tộc mạnh mẽ sâu đậm trong mỗi con người Việt Nam. Nền văn hóa dân tộc ấy, ý thức dân tộc ấy đã gắn kết dân tộc Việt Nam thành một khối vững mạnh, tồn tại qua ngàn năm Bắc thuộc, qua trăm năm thực dân thống trị.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, nhà giàu ở nông thôn, nhà tư sản ở thành phố, quan lại triều đình cũ, trí thức Việt Nam ở trong và ngoài nước đều tham gia kháng chiến đánh giặc. Là những người giỏi giang, thành đạt, là tinh hoa của dân tộc, họ có sức lôi cuốn, tỏa sáng, có vai trò rất to lớn trong đánh giặc giữ nước, họ càng vô cùng cần thiết trong xây dựng đất nước. Nhưng tín điều Cộng sản đưa giai cấp công nhân lên làm chủ thể, lấy giai cấp nông dân nghèo là đồng minh, coi các thành phần khác là đối lập, cần đánh đổ, cải tạo, chuyên chính. Những cuộc đánh đổ (cải cách ruộng đất), cải tạo (công thương nghiệp tư bản tư doanh), chuyên chính (Nhân văn Giai phẩm) là những đòn chí tử, liên tiếp đánh vào khối đoàn kết dân tộc.
Chiến thắng năm 1975 không phải là chiến thắng của ý thức hệ Cộng sản mà là chiến thắng của ý chí dân tộc, của nền văn hóa dân tộc Việt Nam. Chiến thắng năm 1975 không phải là chiến thắng của miền Bắc với miền Nam mà là chiến thắng của cả dân tộc Việt Nam. Đặt dân tộc lên trên, chúng ta sẽ có một tiềm lực vô cùng to lớn để xây dựng đất nước. Cơ sở vật chất kĩ thuật và lực lượng lao động cao cấp còn ở lại miền Nam là một vốn quí, một bệ phóng thuận lợi để nhanh chóng cất mình bay lên cùng những con rồng kinh tế châu Á. Nhưng giành hết chiến thắng của dân tộc về đảng, những người Cộng sản trở nên kiêu ngạo, tự mãn, lại càng tư tin vào tín điều Cộng sản! Lại say sưa đấu tranh giai cấp! Lại cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh! Lại hủy hoại khối lượng lớn của cải, làm tan hoang những cơ sở vật chất của một nền sản xuất công nghiệp tương đối phát triển! Lại hận thù dân tộc, đẩy hàng vạn người đã tham gia chính quyền cũ vào những trại cải tạo, gây chia rẽ, li tán trong lòng dân tộc! Thời cơ mất đi! Tiềm lực vô cùng quí giá để phát triển đất nước cũng mất đi! Đất nước bị đẩy đến tận cùng quẫn bách. Kinh tế kiệt quệ! Lòng người li tán! Thế giới cấm vận! Năm 1975, kinh tế Việt Nam ngang ngửa với các nước Đông Nam Á thì nay tụt lại sau vài chục năm!
Nỗi đau li tán còn khoét sâu trong lòng dân tộc lại lộ ra mỗi khi lãnh đạo nước ta đến Mĩ đều có những đoàn người của cộng đồng người Việt ở Mĩ rầm rộ biểu tình chống đối. Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết phải đi cổng sau vào Nhà Trắng gặp Tổng thống Mĩ vì cổng trước bị đoàn người biểu tình phong tỏa! Đau quá! Người đứng đầu nhà nước đã đánh thắng Mĩ phải đi cổng sau Phủ Tổng thống vào gặp người đứng đầu nước chủ nhà thua trận! Nỗi đau li tán dân tộc dẫn đến nỗi đau quốc thể! Đặt giai cấp lên trên dân tộc nên đến nay đất nước thống nhất đã hơn 30 năm mà vẫn chưa thể hòa giải, hòa hợp dân tộc!
Nước Đức thống nhất sau Việt Nam 14 năm rưỡi. 9.11.1989 bức tường Berlin dài 155 kilomet do nhà nước Cộng sản Đông Đức xây bị dân Đức phá sụp đổ. Hai miền Đông – Tây nước Đức ôm chầm lấy nhau. Nước Đông Đức Cộng sản bị xóa sổ, bị gom về với Tây Đức Tư bản. Đặt dân tộc Đức vĩnh hằng lên trên ý thức hệ nhất thời, không có một trại cải tạo nào dành cho viên chức chính quyền Đông Đức. Địa lí Đức thống nhất. Dân tộc Đức cũng thực sự thống nhất, hòa hợp. Bà Angela Merkel Thủ tướng nước Cộng hòa Liên bang Đức hiện nay vừa tái trúng cử nhiệm kì thứ hai là đoàn viên thanh niện Cộng sản Đông Đức trước đây.
Nỗi đau li tán của dân tộc Việt Nam còn âm ỉ, nhức nhối đến hôm nay là hậu quả tất yếu của kiên trì tín điều Cộng sản đưa giai cấp lên trên dân tộc, là trách nhiệm không thể chối bỏ của đảng Cộng sản.
B. Đặt lợi ích của đảng lên trên lợi ích dân tộc
Với chuyên chính vô sản tạo ra những cuộc đấu tố, thanh trừng thảm khốc, với nền kinh tế kế hoạch duy ý chí bóp nghẹt sản xuất và cuộc sống, với nền văn hóa nghệ thuật khuôn phép, xơ cứng, triệt tiêu tìm tòi, sáng tạo, sau gần nửa thế kỉ tồn tại, hệ thống Cộng sản thế giới khuôn xã hội con người vào khuôn mẫu ra đời từ thế kỉ 19 trái tự nhiên, tất yếu phải sụp đổ. Từ một hệ thống Cộng sản thế giới trải rộng thành một khối lớn từ châu Âu sang châu Á nay chỉ còn năm nước Cộng sản như năm hòn đảo chơi vơi và Việt Nam là một hòn đảo chơi vơi và nhỏ bé. Đây chính là lúc phải bừng tỉnh để nhận lại đường, từ bỏ sự trì trệ, trái tư nhiên, đưa đất nước trở lại dòng chảy tiến hóa, cùng nhịp bước với sự phát triển của loài người. Làm việc này không phải chỉ vì đất nước, vì dân tộc mà trước hết vì chính đảng Cộng sản để đảng thoát khỏi xơ cứng, trì trệ của những tín điều đã bị thực tế cuộc sống bác bỏ, đã bị lịch sử chứng minh là sai trái, để đảng Cộng sản vẫn giữ được vai trò lãnh đạo bằng lòng tin và sự gửi gắm của nhân dân, chứ không phải bằng điều 4 của Hiến pháp, không phải bằng bạo lực chuyên chính vô sản. Nhưng đảng ở cấp cao đã không làm được như thế! Không có sự nhạy bén, năng động của tư duy công nghiệp để thắng sức ỳ của tư duy nông nghiệp thô sơ, không có sự mẫn cảm và sáng láng của trí tuệ và tài năng tạo ra bước ngoặt cần có cho dân tộc, vẫn kiên trì với những tín điều Cộng sản, những người lãnh đạo đảng ở cấp cao đã bình thản neo đất nước ta, dân tộc ta trên hòn đảo chơi vơi. Để tồn tại được trên hòn đảo chơi với đó, đảng đã thực hiện hai điều ngược với quyền lợi nhân dân và dân tộc.
. Bạo lực chuyên chính vô sản lại được sử dụng với nhân dân
Nhân dân có tiếng nói xây dựng, đóng góp, nói tiếng nói bức thiết của cuộc sống, tiếng nói vì lợi ích chính đáng của người dân nhưng không thuận tai đảng, không phù hợp với lợi ích của đảng, có hại cho sự tồn tại của đảng thì nhân dân nói tiếng nói đó liền bị đẩy sang phía kẻ thù “âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch”, phải chuyên chính! Đẩy nhân dân trở thành kẻ thù, hàng loạt vụ bắt bớ đã diễn ra, hàng loạt cuộc đấu tố dựng tội tàn nhẫn, hàng lọat phiên tòa đã tuyên những bản án khắc nghiệt. Chuyên chính vô sản đã gây ra Cải cách ruộng đất, Cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, Vụ án Nhân Văn Giai phẩm, Vụ án Xét lại chống đảng, đã chà đạp lên số phận bao người trung thực, tài giỏi, gây nỗi kinh hoàng cho dân tộc, gây thiệt hại vô cùng to lớn cho đất nước. Những cuộc bắt bớ, đấu tố đang diễn ra là cuộc cải cách ruộng đất kinh hòang năm nào vẫn đang âm thầm tái diễn đến tận hôm nay! Sức mạnh tạo ra bằng lòng tin mới là sức mạnh trường tồn, vô tận. Đó là sức mạnh của lẽ phải, của nhân nghĩa, của lòng người. “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” (Nguyễn Trãi). Sự nhân nghĩa tạo ra sự yên dân, tạo ra sức mạnh trường tồn. Sức mạnh của bạo lực là sức mạnh nhất thời, sức mạnh nghịch đạo. “Cái còn thì sẽ còn nguyên / Cái tan thì tưởng vững bền cũng tan” (Trần Đăng Khoa) Sức mạnh bạo lực ngự trị ở xã hội yên hàn là sự bất ổn lớn của cuộc sống, là nguy cơ lớn cho dân tộc.
. Liên minh thua thiệt với Trung Quốc
Là một đảng nhỏ bé, lại theo đuổi chủ nghĩa quốc tế vô sản, đảng Cộng sản Việt Nam muốn tồn tại không thể thiếu thành tố quốc tế. Suốt quá trình tồn tại trước đây, đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi đảng Cộng sản Liên Xô và nhà nước Xô Viết là niềm tin, là chỗ dựa vững chắc. Đảng Cộng sản Liên Xô giải tán. Nhà nước Xô Viết tan rã. Mất chỗ dựa tưởng như trường thành bền vững muôn đời, chơi vơi giữa thế giới đang ầm ầm biến chuyển không thuận cho Cộng sản, lại ảo tưởng rằng cùng là nước Cộng sản, cùng kiên trì con đường Xã hội chủ nghĩa, Trung Quốc sẽ thay thế Liên Xô, giương cao ngọn cờ Cộng sản, làm chỗ dựa cho các nước Cộng sản còn lại, những người lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam đã cố quên đi bản chất tham lam, bành trướng của Trung Quốc, cố quên đi bàn tay những người lãnh đạo Trung Quốc còn đỏ lòm máu nhân dân Việt Nam, cố quên đi cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc nước ta do Trung Quốc phát động giết hại hàng vạn đồng bào chiến sĩ ta năm 1979, cố quên đi những cuộc chiến do Trung Quốc gây ra chiếm đất, chiếm biển đảo của ta. Cuộc chiến năm 1974 đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hòang Sa của ta. Cuộc chiến năm 1988 đánh chiếm một phần quần đảo Trường Sa của ta, giết hại gần 70 chiến sĩ ta. Cố quên đi để cầu thân với Trung Quốc, tìm chỗ dựa để đảng tồn tại, cố lấy lòng lãnh đạo Trung Quốc để giữ chiếc ghế quyền lực!
Nhìn thấy cuộc chiến tranh chống Mĩ của ta rất có lợi cho Trung Quốc. Cuộc chiến tranh ấy vừa làm cho Mĩ sa lầy, yếu đi, để Trung Quốc vượt lên, vừa làm cho Việt Nam kiệt quệ càng phải phụ thuộc vào Trung Quốc, Trung Quốc liền trù tính thiết kế cuộc chiến tranh ấy theo công thức: Đánh Mĩ = Máu người Việt Nam + Vũ khí, trang bị Trung Quốc. Viện trợ của Trung Quốc cho Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ rất to lớn, cấp bách. Sự phối hợp giữa Việt Nam với Trung Quốc trong đối sách quốc tế của cuộc chiến tranh cũng rất quan trọng, khẩn thiết. Khẩn trương, cơ mật như vậy nhưng lúc đó đâu có cần lập đường dây nóng, đường dây bảo mật! Thế mà ngày nay, trong mối bang giao hòa hiếu thông thường, trong cuộc sống hòa bình, dân chủ, công khai, dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, Trung Quốc và Việt Nam lại phải lập đường dây nóng, đường dây bảo mật giữa lãnh đạo hai nước. Đầu tháng 6. 2008, Tổng bí thư Nông Đức Mạnh sang Trung Quốc, đường dây nóng giữa lãnh đạo cấp cao hai nước được đề xuất. Chỉ bốn tháng sau, tháng 10. 2008 Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sang Trung Quốc chính thức kí kết văn bản thiết lập đường dây này. Tháng 5. 2008, tên đường dây được gọi là đường dây nóng. Đến tháng 10. 2008 được gọi là đường dây bảo mật. Với người dân, đó là đường dây vô cùng bất bình thường. Từ đường dây bất bình thường đó mà bao nhiêu điều bất bình thường trong quan hệ Việt Nam – Trung Quốc đã xảy ra. Nhà nước Trung Quốc cứ ngang ngược lấn tới và nhà nước Việt Nam cứ cam tâm chấp nhận!
Trung Quốc sáp nhập quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam vào phủ huyện Tam Sa của họ. Học sinh, sinh viên Hà Nội liền mang cờ Tổ quốc, mang băng chữ Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam tập hợp đông đảo nhưng ôn hòa và trật tự trước sứ quán Trung Quốc. Ngày 9.1.2008 có mặt ở Hà Nội, tôi đã được chứng kiến cuộc tập hợp của lòng yêu nước đó. Tôi đã được nghe tiếng hô Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam. Đó là tiếng nói của lịch sử dựng nước Việt Nam, tiếng nói của những người Việt Nam ở những thế kỉ xa xưa đã dong buồm cánh dơi ra nhận đất Hoàng Sa, Trường Sa, tiếng nói của Lê Quý Đôn, nhà bác học Việt Nam từ thế kỉ 18 đã vẽ chuỗi đảo cát vàng Hoàng Sa, Trường Sa trong bản đồ Việt Nam, tiếng nói của đội binh Hoàng Sa được triều đình nhà Nguyễn phái ra giữ đất Hoàng Sa, tiếng nói của những người lính Việt Nam đã bỏ mình ngoài biển Đông trong cuộc chiến đấu bảo vệ Hoàng Sa, Trường Sa. Đó là tiếng nói của ý chí mọi thế hệ người Việt Nam khẳng định chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ với mảnh đất đã thấm đẫm máu xương tổ tiên người Việt, là tiếng nói vô cùng cần thiết trước tham vọng bành trướng của Trung Quốc. Nhưng một lực lượng công an hùng hậu được huy động đến quyết liệt và nhanh chóng giải tán cuộc tập hợp của lòng yêu nước, bắt đi những người nồng nhiệt bộc lộ lòng yêu nước. Nhìn sắc áo xanh, áo vàng công an giăng kín che chở sứ quán Trung Quốc và sát khí đằng đằng xua đuổi, giằng kéo bắt bớ thanh niên ta, giật xé băng chữ Hoàng Sa Trường Sa là của Việt Nam, trong lòng tôi nghẹn một nỗi đau xót, tủi nhục!
Ngày 17 tháng 2 năm nay, 2009, tròn 30 năm cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc cũng là lần giỗ tròn thứ 30 hàng vạn đồng bào chiến sĩ ta đã ngã xuống để bảo vệ đất đai biên cương nhưng gần ngàn cơ quan thông tấn báo chí cả nước được lệnh không được nói một lời, không được viết một chữ nhắc đến sự kiện này, không được nhắc đến sự hi sinh bi tráng và cao cả của đồng bào chiến sĩ ta trong cuộc chiến giữ nước này! Trong khi đó, một nhà xuất bản cấp nhà nước của ta lại xuất bản tập sách dịch của Trung Quốc ca ngợi những người lính Trung Quốc đã sang chinh phạt Việt Nam! Ôi chao, để làm đẹp lòng những người lãnh đạo Trung Quốc, để có chỗ dựa cho đảng, chúng ta phải vô ơn và nhục nhã phỉ báng cả hương hồn liệt sĩ của chúng ta! Đảng tồn tại bằng cách đó, làm sao tôi có thể đứng trong đảng đó được!
Báo Du Lịch đăng bài tri ân chiến sĩ quân đội ta đã chiến đấu hi sinh để bảo vệ Trường Sa thì báo bị đình bản! Blogger viết blog bày tỏ sự bất bình trước việc dân ta đánh cá trên vùng biển của ta bị lính Trung Quốc bắt giữ, đánh đập, cướp bóc, thì Blogger bị bắt! Còn báo Điện tử đảng Cộng sản Việt Nam sốt sắng tiếp sóng tuyên truyền cho Trung Quốc khẳng định Hoàng Sa là của Trung Quốc thì báo bình thản vô can!
Những sự việc đau lòng, tủi nhục này diễn ra hàng ngày nhiều lắm, không sao kể xiết!
Những nhượng bộ, thỏa hiệp để Trung Quốc vạch lại biên giới, phân chia lại vùng biển, chiếm đất, chiếm biển của ta. Trong thư ngỏ gửi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ngày 3. 3. 2009 tôi đã dẫn chứng về việc mất đất mất biển. Những hợp đồng kinh tế dễ dãi, ưu ái dành cho Trung Quốc. Đại dự án bô xít gây lo lắng bất an cho cả dân tộc về môi trường, về văn hóa, về an ninh quốc phòng và đại dự án bô xít không vì nhu cầu cấp bách của sự phát triển kinh tế đất nước mà chỉ vì năm 2001, vừa trở thành người lãnh đạo cao nhất của đảng Cộng sản Việt Nam, Tổng bí thư Nông Đức Mạnh sang Bắc Kinh ra mắt những người lãnh đạo đảng Cộng sản Trung Quốc, từ bô xít đột ngột xuất hiện trong tuyên bố chung Giang Trạch Dân – Nông Đức Mạnh: “Nhất trí thúc đẩy các doanh nghiệp hợp tác lâu dài trong dự án bô xít nhôm Đắc Nông”. Năm 2006, từ bô xít lại được nhắc lại trong thông báo về chuyến thăm Việt Nam của Tổng bí thư đảng Cộng sản Trung Quốc Hồ Cẩm Đào: “Khẩn trương bàn bạc và thực hiện các dự án lớn như bô xít Đắc Nông”! Thế là dự án bô xít Tây Nguyên trở thành “chủ trương lớn của đảng và nhà nước ta” (lời tuyên bố của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng).
Căn nguyên vì sao Trung Quốc cần khai thác bô xít của Việt Nam và mối nguy hại của việc khai thác bô xít Tây Nguyên tôi đã nêu trong thư ngỏ gửi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ngày 3. 3. 2009. Điểm xuất phát của dự án bô xít Tây Nguyên là từ chuyến đi Trung Quốc của người đứng đầu đảng Cộng sản Việt Nam và từ chuyến đi Việt Nam của người đứng đầu đảng Cộng sản Trung Quốc, sự nôn nóng thúc giục thực hiện dự án bô xít Tây Nguyên của phía Trung Quốc, sự phân tích thấu đáo của các nhà khoa học chỉ ra sự thua thiệt về kinh tế, mối nguy cơ về môi trường, về văn hóa, nỗi bất an về thế chiến lược quốc phòng của dự án bô xít Tây Nguyên đã cho thấy chủ trương lớn này của đảng không vì dân tộc Việt Nam! Cũng không vì dân tộc Việt Nam những đoàn người Trung Quốc lũ lượt đến Tây Nguyên, đào bới bô xít, đến Quảng Ninh, Hải Phòng, Khánh Hòa làm cảng biển, những người Trung Quốc sục sạo khắp rừng sâu núi thẳm với danh nghĩa thăm dò khai thác khoáng sản nhưng thực chất họ làm gì chúng ta không biết! Càng không vì dân tộc Việt Nam những đoàn ô tô tải sức chở trên 20 tấn đêm đêm ầm ầm chở khoáng sản hiếm, tài nguyên quí của nước ta kìn kìn chạy sang phương Bắc!
Vì mối giao hòa với Trung Quốc làm chỗ dựa bảo đảm cho sự tồn tại của đảng Cộng sản Việt Nam mà đất đai của tổ tiên không được bảo toàn, quyền lợi kinh tế đất nước không được coi trọng, đạo lí làm người, văn hóa dân tộc không được giữ gìn, cả đến quyền công dân, lòng yêu nước của nhân dân không được nhìn nhận thì tôi không thể là đảng viên Cộng sản như vậy. Tôi xin trở về làm quần chúng, làm dân thường, đau nỗi đau của dân, cùng dân lo toan giữ lấy nước.
III. ĐẢNG ĐANG THỰC HIỆN NHỮNG ĐIỀU TRÁI VỚI TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Trong đời sống chính trị của đất nước ta hiện nay, từ ngữ có tần số sử dụng cao nhất là từ Hồ Chí Minh. Thần thánh hóa Hồ Chí Minh, đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn nói đi theo con đường Hồ Chí Minh đã chọn, rầm rộ học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh nhưng trong thực tế đã hoàn toàn làm trái tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Trong bài viết “Ăn mày dĩ vãng – thực chất cuộc vận động học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh”, tôi đã thẳng thắn nêu ra sự làm trái đó chính là để bảo vệ tư tưởng dân tộc rất sâu đậm của Hồ Chí Minh, bảo vệ hình ảnh bình dị và vô cùng gần gũi, thân thiết với dân của Hồ Chí Minh, những mong đảng tỉnh táo, dũng cảm nhìn nhận, xem xét lại. Hai cội nguồn sức mạnh của đảng là tinh thần dân tộc và tư tưởng Hồ Chí Minh. Mà cốt lõi tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là dân tộc. Khởi đầu con đường cách mạng của Hồ Chí Minh là dân tộc và đích đến của con đường ấy cũng là dân tộc. Như trên tôi đã nêu, đảng đã lấy giai cấp đánh tan rã, li tán, suy yếu dân tộc. Nay đến tư tưởng Hồ Chí Minh, đưa ra học tập ồn ào nhưng từ lâu, đảng đã bác bỏ những tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh. Bài “Ăn mày dĩ vãng” tôi viết về sự bác bỏ đó. Đó là đóng góp của tôi, một đảng viên với đảng, là bộc lộ lòng yêu nước, bộc lộ tấc lòng trung trinh với dân tộc, với tổ quốc Việt Nam thân yêu của tôi.
Nhưng trong cuộc họp tôi được mời tham dự với nội dung “Nghe UBKT/ĐU thông báo việc giải quyết tài liệu Ăn mày dĩ vãng – thực chất cuộc vận động học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh“, ngày 13.11.2009, đảng ủy nơi tôi sinh hoạt đã kết luận bài viết của tôi “đã phủ định chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đã thể hiện rõ đồng chí không còn trung thành với đảng, với tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đã xuyên tạc, bôi nhọ hình ảnh lãnh tụ Hồ Chí Minh.” Đó là kết luận áp đặt, khiên cưỡng, thiếu thiện chí với tôi và né tránh, không đủ dũng khí nhìn vào sự thật.
IV. LỜI KẾT
Tất cả những điều tôi trình bày ở trên bộc lộ sự thất vọng của tôi về đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay. Vì thế tôi xin từ bỏ đảng tịch đảng viên Cộng sản. Cuộc sống luôn vận động và phát triển. Tư tưởng con người cũng luôn vận động và phát triển. Không còn vận động và phát triển được sẽ bị cuộc sống đào thải. Tình cảm của tuổi trẻ đưa tôi đến với đảng Cộng sản. Hiểu biết của nhận thức và thực tế cuộc đời đưa tôi đến quyết định từ bỏ sự lựa chọn cảm tính của tuổi trẻ. Tôi đã tự nguyện vào đảng, nay tôi tự rút ra khỏi đảng cũng là việc rất bình thường, lành mạnh đối với đảng cũng như với riêng tôi. Đảng ủy cần nhìn nhận sự việc ở góc nhìn của sự vận động, là sự bình thường, sinh động của cuộc sống, không nghiêm trọng hóa sự việc để dẫn đến qui kết, truy bức tư tưởng.
Tôi cảm ơn.
Ngày 20 tháng 11 năm 2009
Người viết
PHẠM ĐÌNH TRỌNG
Nhà văn